Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Phi Khanh 5

Bài 18.

送中使武適 之      

五色雲邊出使星
澟然忠義照人明
春臨梅驛霜蹄急           
雪霽淮潮玉節清          
天地北南雙眼濶                     
山河夷 險寸心平
慇懃今日送君別
杯酒難勝萬里情
                阮飛卿

Phiên âm

Tống trung sứ Vũ Thích chi

Ngũ sắc vân biên xuất sứ tinh
Lẫm nhiên trung nghĩa chiếu nhân minh
Xuân lâm mai dịch sương đề cấp
Tuyết tễ hoài triều ngọc trúc thanh
Thiên địa bắc nam song nhãn khoát
Sơn hà di hiểm thốn tâm bình
Ân cần kim nhật tống quân biệt
Bôi tửu nan thăng vạn lý tình.           
                         Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa:

Bên áng mây năm sắc xuất hiện ngôi sao sứ thần
Khí tiết trung nghĩa lẫm liệt dọi sáng lòng người
Xuân tới trạm maivó ngựa trong sương vội vã
Tuyết quang Hoài thủy tiết ngọc trong sáng
Trời đất có bắc nam tầm mắt thênh thang
Núi sông chỗ bằng chỗ hiểm tấc lòng trung trinh
Hôm nay ân cần tiến biệt ngài
Chén rượu khôn ngăn mối tình muôn dặm.

Dịch thơ
1.
Bên cạnh năm mây hiện sứ lang
Bừng bừng tỏa khắp khí trung lương
Tiết quang Hoài thủy dương cờ tiết
Xuân tới mai đình giục vó sương
Trời đất bắc nam nhìn bát ngát
Non sông bình hiểm dạ thênh thang
Tiễn đưa xiết kể bang khuâng nỗi
Chén rượu khôn ngăn tứ dặm trường.
                        Đào Phương Bình dịch.

2.
Năm sắc bên mây xuất sứ tinh
Lòng người trung nghĩa sáng lung linh
Xuân đình vó ngựa sương mau gấp
Hoài thủy tuyết ngời tiết ngọc thanh
Trời đất bắc nam trông bát ngát
Núi sông bằng hiểm dạ trung trinh
Hôm nay lưu tiễn người ly biệt
Chén rượu khôn ngăn vạn lý tình.
                      Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 19.

城中有感寄呈同

朝中未紫動紛紛         
幻眼谁能各自分
頭上老天依日月
人間夢景付煙雲         
習池何處招山簡         
杜曲無錢覔廣文                           
謀議廟堂吾豈敢
議將泉石夢諸君
                阮飛卿

Phiên âm

Thành trung hữu cảm ký trình đồng chí

Triều trung vị tử động phân phân
Huyễn nhãn thùy năng các tự phân
Đầu thượng lão thiên y nhật nguyệt
Nhân gian mộng cảnh thốn yên vân
Tập trì hà xứ chiêu sơn giản
Đỗ khúc vô tiền mịch quảng văn
Mưu nghị miếu đường ngô khởi cảm
Nghĩ tương tuyền thạch mộng chư quân.
                                Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Gửi trình các bạn đồng chí những cảm khái khi ở trong thành

Trong triều áo đỏ áo tía cử động rối loạn
Bởi mắt chẳng tinh ai mà phân biệt được mình
Trên đầu có trời già nương tựa tháng ngày
Cói đời là cảnh mộng phó mặc mây khói
“Tập Trì” biết nơi nao mà mời Sơn Giản
Đỗ Khúc  không có tiền để tìm Quảng Văn
Bàn tính việc miếu đương tôi đâu giám
Chỉ mong nơi lâm tuyền mơ gặp các ông.

Dịch thơ
1.
Bời bời đỏ tía lớp đai cân
Mắt quáng ai mà có thể phân
Nhật nguyệt đang soi vừng đỉnh não
Khói mây phó mặc mộng trần gian
Tập Trì chẳng thấy mời Sơn Giản
Đỗ Khúc không tiền kiếm Quảng Văn
Mưu lược miếu đường ta chẳng giám
Lâm tuyền toan mộng gặp chư quân.
                        Đào Phương Bình dịch
2.
Trong triều đỏ tía rối tinh
Mắt mờ ai biết rõ mình mà hay
Trời cao nương tựa tháng ngày
Nhân gian ảo mộng khói mây thôi mà
Tập Trì Sơn Giản thì xa (1)
Tiền đâu Đỗ Khúc đến nhà Quảng Văn  (2)
Miếu đường tính chuyện tôi van
Chỉ mong rừng suối được gần các ông.
                             Đỗ Đình Tuân dịch

  1. Tập Trì:  thành trì của Tập Tạc Xỉ,  người đất Tương Dương đời Tấn, có tài văn chương lại có biệt tài về sử. Sơn Giản, người đất Hà Nội đời Tấn, có phong thái ôn hòa, thanh nhã và hào phóng; làm quan đến chức Thượng thư tả bộc xạ lĩnh Lại bộ, tiếp đó làm chinh nam tướng quân trấn giữ đất Tương Dương; sau đến Lạc Dương và thường đến thăm lâu đài nhà họ Tập
  2. Đỗ Khúc: một vùng ở phía nam huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây. Vào đời Đường họ Đỗ đời đời ở đất này nên vùng đó mới có tên là Đỗ Khúc. Quảng Văn: tên một cái quán. Sau này Đường Huyền Tông đặt ra một chức quan. Đây chỉ là một chức nhàn quan không có thực quyền.
Cả hai câu 5 và 6 đều nói ý không có cách gì để gặp mặt tri âm


Bài 20.


賀宋黎杜三御使

烏臺久矣禁無聞
聖主開誠妙選掄
慶曆昔聞揚四諫        
昌符今喜擢三人                
已將風釆儀朝著
好把精忠動紫宸
留取聲名光萬古                
世間路总煙塵      
               阮飛卿

Phiên âm       

Hạ Tống-Lê-Đỗ tam ngự sử

Ô đài cửu hĩ cấm vô văn
Thánh chúa khai thành diệu chuyển luân
Khánh lịch tích văn dương tứ gián
Xương Phù kim hỷ trạc tam nhân
Dĩ tương phong thái nghi triều trứ
Hảo bả tinh trung động tử thần
Lưu thủ thanh danh quang vạn cổ
Thế gian kỳ lộ tổng yên trần.
                     Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Mừng ba quan ngự sử họ Tống-họ Lê-họ Đỗ

Đã lâu rồi chốn Ô Đài lặng bặt không nghe gì
Nay thánh chúa mở lòng thành khéo léo lựa chọn
Từng nghe đời Khánh Lịch từng khen bốn vị gián nghị
Nay mừng năm Xương Phù cất nhắc ba người
Đã đem phong thái làm khuôn mẫu ở triều đình
Hãy đem lòng trung khích động điện tía
Gắng đem lại tiếng tăm soi sáng muôn thuở
Những con đường rẽ trên đời này thảy đều khói bụi.

Dịch thơ

Ô Đài (1) lâu lắm bặt như không
Thánh chúa thành tâm khéo chọn dùng
Khánh Lịch từng nghe thăng bốn vị (2)
Xương Phù nay thấy cử ba ông (3)
Đã đem phong thái làm khuôn mẫu
Hãy lấy lòng trung động cửu trùng (4)
Lưu lại thanh danh soi sáng mãi
Nhân gian ngã rẽ khói mây lồng.
                        Đỗ Đình Tuân dịch              

  1. Ô Đài: nghĩa chữ là “Đài Quạ đen” nhưng nghĩa thực chỉ “Đài ngự sử” do tích: Hán Thư chép: “ bên tòa ngự sử có khóm cây bách, hàng nghìn con quạ đến đậu ở đó”. Vì thế Đài ngự sử mói được gọi là Ô Đài.
  2. Khánh Lịch:  đời Tống Nhân Tông, niên hiệu Khánh Lịch có thăng bốn người nổi tiếng trung trực làm quan Gián nghị đại phu đó là: Dư tĩnh, Âu Dương Tu, Thái Tương và Vương Tố.
  3. Xương Phù: niên hiệu vua Trần Phế Đế (1377-1388) Trong ba vị ngự sử thì các vị họ Lê, họ Tống chưa rõ là ai. Còn vị họ Đỗ có lẽ là Đỗ Tử Trừng. Vì trong bài thơ “Tứ trung úy Đỗ Tử Trừng” của Hồ Quý Ly có câu: “Ô Đài cửu hĩ cấm vô thanh” (đã lâu , chốn Đài ngự sử vẫn lặng tiếng” ?
  4. Điện Tía: dịch chữ “Tử thần” chỉ nơi nhà vua ngự. để giữ vần, tôi phải thay bằng cửu trùng cũng chỉ nhà vua thay cho “Điện Tía”.


29/3/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét