Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Phi Khanh 15

Bài 43

泊阮家陵

扁舟天德繫斜暉
亡阮荒丘已昔時
肅肅遺靈藏澤樹
青青古色枕江祠
桐棺無復成龍氣
華表惟存宿鶴枝
凝佇百年成一慨
黄昏小立自哦詩      
               阮飛卿

Phiên âm

Bạc Nguyễn gia lăng

Biển chu Thiên Đức hệ tà huy
Vong Nguyễn hoang khâu dĩ tích thì
Túc túc di linh tàng trạch thụ
Thanh thanh cổ sắc chẩm giang tì (từ)
Đồng quan vô phục thành long khí
Hoa biểu di tồn túc hạc chi
Ngưng trữ bách niên thành nhất khái
Hoàng hôn tiểu lập tự nga thi.
                           Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Cắm thuyền tại lăng nhà Nguyễn (1)

Chiếc thuyền con đậu trong bong chiều trên sông Thiên Đức (2)
Mồ hoang họ Nguyễn cũ đã thành chuyện xưa
Khí thiêng lẫm liệt còn lẩn quất ẩn ở chòm cây bên chằm
Mầu cổ xanh xanh ngôi đền vẫn gói bên sông
Quan tài gỗ vông khôn trở lại khí rồng bay (3)
Cột hoa biểu (4)chỉ còn là cành hạc đậu (5)
Đứng lặng suy nghĩ cảm khái việc trăm năm
Hoàng hôn rồi đứng lại chốc lát một mình ngâm thơ.

Ghi chú
1. Nhà Nguyễn: tức nhà Lý, khi nhà Trần lên ngôi vua, đổi nhà Lý thành nhà Nguyễn. (kiêng húy chữ Lý là tên của Trần Lý , tổ của nhà Trần).
2. Thiên Đức: tên cũ là sông Bắc Giang, theo ĐVSKTT, sông này được nhà Trần đào lại vào năm 1390, chạy qua khu lăng nhà Lý ở huyện Tiên Du. Nay tức là sông Đuống.
3. Khí rồng bay (thành long khí): Theo ĐVSKTT, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra , khi thuyền cập bến thì có rồng vàng hiện lên trong thuyền vua vì thế đổi tên La Thành ra thành Thăng Long.
4. Cộ hoa biểu: một cột cao, trên ngọn ghép ngang một thanh gỗ, dựng ở những nơi đô hội. Đõ là dấu hiệu của nhà vua sẵn sàng thu nhận ý kiến của toàn dân trong nước và là vật tượng trưng cho sự thịnh trị của một triều đại, sự anh minh của bậc vương giả.
5. Cành hạc đậu (hạc chi): Theo sách “Sưu thần hậu ký”, Đinh Linh Uy người đất Liêu Đông, đời Hán, lên học đạo ở núi Linh Hư, sau hóa thành chim hạc bay về đất Liêu Đông, đậu trên cột hoa biểu, thảm thiết kêu gọi mọi người hãy đi theo mình vì đất nước đã mất..

Dịch thơ:
1.
Đức Giang thuyền buộc tà dương
Cơ đồ triều Lý gò hoang đã thành
Cây chằm phảng phất u linh
Bên sông cổ miếu rêu xanh dãi mầu
Rồng thiêng thuở nọ còn đâu
Cột hoa trơ đó hạc nào qua thăm
Ngậm ngùi thay cuộc trăm năm
Quay lưng bóng xế thơ ngâm một mình.
                         Đào Phương Bình dịch

2.
Thuyền nhỏ chiều tà buộc bến sông
Mồ hoang nhà Lý đã rêu phong
Khí thiêng phảng phất trên vòm lá
Đền cổ xanh xanh giữa cánh đồng
Khí thế rồng bay khôn trở lại
Cột hoa biểu hạc có về không ?
Trăm năm nghĩ lại buồn man mác
Đứng lặng ngâm nga dãi nỗi lòng.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 44

三月初一日曉起

已無畫爥醉裙紅
便倚青燈照鬢蓬
破屋吟殘紅杏雨
清都夢醒紫微風
一身九竅七情内
萬事千憂百慮中
忙底不知寒食過
啓窻花又折梧桐
               阮飛卿

Phiên âm

Tam nguyệt sơ nhất nhật hiểu khởi

Dĩ vô họa chúc túy quần hồng
Tiện ỷ thanh đăng chiếu mấn hồng
Phá ốc ngâm tàn hồng hạnh vũ
Thanh đô mộng tỉnh tử vi phong
Nhất thân cửu khiếu thất tình nội
Vạn sự thiên ưu bách lự trung
Mang để bất tri hàn thực quá
Khải song hoa hựu chiết ngô đồng.
                       Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Ngày mồng một tháng ba sáng dậy

Không còn đuốc hoa để say khách quần hồng  (1)
Phải nhờ ngọn đèn xanh để soi mái tóc bơ phờ
Nhà rách nát hạt mưa hồng hạnh(2) chấm dứt giọng thơ tàn
Chốn kinh đô làn gió tử vi (3) thức tỉnh giấc chiêm bao
Một thân trong bảy tình chín khiếu (4)
Muôn việc trong trăm nghĩ nghìn lo
Bời bời nghìn nỗi chẳng hay tiết hàn thực đã qua (5)
Mở cửa sổ ngắm hoa lại đến bẻ một cành ngô đồng.

Ghi chú
1. Quần hồng: Chỉ người đàn bà
2. Mưa hồng hạnh (hồng hạnh vũ): chỉ mưa xuân
3. Tử vi; chỉ tòa Trung thư
4. Bảy tình chín khiếu (cửu khiếu thất tình): 7 tình là: Mừng-Giận-Thương-Vui-Yêu-Ghét-Muốn; chín khiếu là: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, lỗ miệng, lỗ đại tiện, lỗ tiểu tiện.
5. Tiết hàn Thực: Trước Thanh Minh một ngày(?)

Dịch thơ
1
Chẳng có đuốc hoa say má phấn
Đành trơ mái tóc dựa đèn khuya
Ngâm tàn nhà rách mưa hồng hạnh
Mộng tỉnh thanh đô gió tử vi
Chín khiếu bảy tình thân một tấm
Trăm lo nghìn nghĩ việc muôn bề
Đã qua hàn thực quên không biết
Mở cửa ngô đồng ngắt một huê.
                   Đào Phương Bình dịch

2.
Không đuốc hoa đưa đón khách tình
Bơ phờ tóc rối ngọn đèn xanh
Mưa xuân nhà nát ngâm ngừng giọng
Gió tử vi đâu tỉnh giấc lành
Chín khiếu bảy tình thân một tấm
Trăm lo nghìn nghĩ việc muôn vành
Bời bời vạn mối quên hàn thực
Mở cửa xem hoa ngắt một cành.
                   Đỗ Đình Tuân dịch


Bài 45

除夜用杜老韻
諸君席上同作

客中送臘虎亭家
殘雪猶飄六出花
天地冬春庭外草
光陰昏曉樹間鴉
燈因守歲常常續
酒為澆愁數數賒
萬事細思看鬢髮
平明梳洗向東華
              阮飛卿

Phiên âm

Trừ dạ dụng Đỗ lão vận
Chư quân tịch thượng đồng tác

Khách trung tống lạp Hổ Đình gia
Tàn tuyết do tiêu lục xuất hoa
Thiên địa đông xuân đình ngoại thảo
Quang âm hôn hiểu thụ gian nha
Đăng nhân thủ tuế thường tục
Tửu vị kiêu sầu sác sác xa
Vạn sự tế tư khan mấn phát
Bình minh sơ tẩy hướng Đông Hoa.
                          Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Đêm ba mươi tết dùng vần của Đỗ Phủ
cùng các bạn trong tiệc làm thơ

Đất khách tiễn đưa năm cũ ở nhà Hổ Đình (1)
Tuyết tàn vẫn còn bay hoa sáu cánh
Đông xuân trời đất đám cỏ ngoài sân (2)
Sáng tối ngày qua cây khô quạ rét (3)
Giữ năm đèn luôn luôn nối bấc
Tưới sầu rượu luôn luôn rót
Muôn việc nghĩ kỹ nhìn hai mái tóc
Sáng nay chải gội ra cửa Đông Hoa (4)

Ghi chú
1. Nhà Hổ Đình: chưa rõ, có lẽ chỉ một  gia đình đại thần nào đó
2. Ý nói đông đi xuân đến cây cỏ ngoài sân báo tin
3. Lấy ý từ câu thơ của Văn Thiên Tường: “ Trài bao sớm chiều con quạ rét vẫn đậu trên cây khô
4. Đông Hoa: cửa của các quan ra vào, tức cửa Hoàng thành.

Dịch thơ

Nhà Hổ Đình tiễn năm qua
Tuyết tàn sáu cánh hoa là là bay
Đông qua xuân lại về thay
Cây khô quạ rét tối ngày đậu trên
Giữ năm luôn nối bấc đèn
Tưới sầu rượu cứ rót thêm lại tràn
Nhìn hai mái tóc miên man
Sớm mai chải gội vào đàng Đông Hoa.
                         Đỗ Đình Tuân dịch.

13/4/2012
Đỗ Đình Tuân

1 nhận xét:

  1. Bài 43 câu kết bài dịch :
    ĐỨNG LẶNG NGÂM NGA DÃI NỖI LÒNG
    Đã đứng lặng thì đừng ngâm nga nữa !

    Trả lờiXóa