Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Phi Khanh 16

Bài 46

宣詔罷別韻副阮炎

長安自昔帝王州
偶賦黄華作勝遊
俗雜獠夷民太古
地宜秔蹈歲常秋
山中過我亡何虎
埂上煩君畜木牛
王事有程軍政急
胸懷莫向酒杯休
              阮飛卿

Phiên âm

Tuyên chiếu bãi biệt vận phó Nguyễn Viêm

Trường An tự tích đế vương châu
Ngẫu phú hoàng hoa tác thắng du
Tục tạp liêu di dân thái cổ
Địa nghi canh đạo tuế thường thu
Sơn trung quá ngã vong hà hổ
Cảnh thượng phiền quân súc mộc ngưu
Vương sự hữu trình quân chính cấp
Hung hoài mạc hướng tửu bôi hưu.
                          Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Tuyên chiếu bãi biệt vận phó Nguyễn Viêm (1)

Trường an từ xưa là đất đế vương (2)
Ngẫu nhiên làm bài thơ “Hoàng hoa” (3) 
                                        tả cuộc du hành kỳ thắng
Phong tục xen lẫn man di, vẫn là dân thái cổ
Đất ưa lúa mố lúa thơm năm thường được mùa
Trong núi không thấy con hùm ngược chính đi qua (4)
Trong cõi xin phiền đến ông chứa sẵn “mộc ngưu” (5)
Lệnh vua có thời hạn việc quân gấp rút
Xin ông chớ có mê say chén rượu !

Ghi chú
1. Nguyễn Viêm: chưa rõ tiểu sử
2. Trường An: tức tỉnh Ninh Bình ngày nay
3. Bài thơ Hoàng hoa tức bài  Hoàng hoàng giả hoa trong Thi kinh, một bài thơ có nội dung úy lạo và khen người đi sứ.
4. Hùm ngược chính (hà hổ): chỉ chính sự hà khắc. Đàn cung, Lễ ký  có câu “苛政猛於虎也” (Chính sự hà khắc còn dữ tợn hơn hổ). Dân trách không có hổ dữ là một lời trách quý mến
5.Mộc ngưu (trâu gỗ): về ý nghĩa của câu thơ này có hai cách giải thích: a/. Cách thư nhất, theo Nam Việt bút ký có chép nước ta thời xưa đã biết dùng máy bằng gỗ kéo cày thay trâu. Khi cày một người điều khiển ở trước, hai người điều khiển sau máy. Nếu theo thuyết này thì Nguyễn Viêm đã có công truyền bá kỹ thuật dùng “trâu gỗ” cho dân nơi ông làm quan; b/. Cách thư hai, theo Gia Cát Lượng truyện, khi vận lương qua Kỳ Sơn, đã sử dụng một loại máy bằng gỗ, gọi là “mộc ngưu”. Nếu hiểu theo cách này thì tác giả đã đề nghị Nguyễn Viêm chế tạo loại  trâu gỗ để vận chuyển lương thực chống quân Minh.

Dịch thơ
1.
Trường An xưa vốn đế vương châu
Bỗng viết Hoàng hoa vịnh thắng du
Tục lẫn mán mường dân cổ phác
Đất trồng tám cánh lúa phong thu
Trong non ta thấy không hùm dữ
Trong cõi ngày nên chứa mộc ngưu
Quân chính phép vua rầy quá gấp
Không nên mang rượu để lu bù.
                    Đào Phương Bình dịch

2.
Tràng An văn vật vốn là nơi
Bỗng viết Hoàng hoa lên núi chơi
Tộc lẫn mán mường dân thái cổ
Đất quen cánh gié lúa bời bời
Trong rừng “hà hổ” không qua lại
Trên ấy “mộc ngư” cũng có rồi
Thời hạn lệnh vua quân việc gấp
Xin đừng chè rượu kẻo lôi thôi.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 47+48

洪州檢正以余韻
作述懷詩見復用其韻以贈

其一

萬姓嗷嗷待哺裘
谁家金玉亞高丘
人情艱險君方轂
世路風濤我亦舟
帝里客懷逢暮雨
書防舊話念英遊
西風刮夢傳邊信
腸断南塘四五州

其二

謾曾一第詫鄉鄰
谁道清風不療貧
霜後菊花還酒客
雪中梅意可詩人
吟籩客舍雙篷鬢
夢裡天門八翼身
城月浦雲相望處
故人來地欲清春.
               阮飛卿

Phiên âm

Hồng Châu kiểm chính  (1) dĩ dư vận
tác thuật hoài thi, kiến phúc, dụng kỳ vận dĩ tặng

Kỳ nhất

Vạn tính ngao ngao đãi bộ cầu
Thùy gia kim ngọc á cao khâu
Nhân tình gian hiểm quân phương cốc
Thế lộ phong đào ngã diệc châu
Đế lý khách hoài phùng mộ vũ
Thư phòng cựu thoại niệm anh du
Tay phong quát mộng truyền anh tín
Tràng đoạn nam đường tứ ngũ châu.

Kỳ nhị

Mạn tằng nhất đệ sá hương lân
Thùy đạo thanh phong bất liệu bần
Sương hậu cúc hoa hoàn tửu khách
Tuyết trung mai ý khả thi nhân
Ngâm biên khách xá song bồng mấn
Mộng lý thiên môn bát dực thân
Thành nguyệt phố vân tương vọng xứ
Cố nhân lai địa dục thanh xuân.
                         Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Kiểm chính Hồng châu dùng vần của tôi để làm bài thơ thuật hoài, sau khi đọc tôi lại dùng vần ấy làm thơ tặng anh

Bài thứ nhất

Muôn đang nhao nhác chờ miếng cơm manh áo
Nhà ai đó vàng ngọc sánh ngang gò cao
Anh đang là cái bánh xe lăn trong sự gian hiểm của tình người
Tôi đang là con thuyền trong sóng gió của đường đời
Tâm trạng làm khách ở quê vua gặp cơn mưa chiều
Câu chuyện cũ ở phòng văn gợi nỗi nhớ 
                                                  những cuộc đi chơi hồi trẻ
Gió tây đánh thức giấc mộng truyền tin tức từ phương tây tới
Đứt ruột vì bốn năm châu mảnh đất phía nam.

Bài thứ hai

Đã từng thi đậu nổi tiếng ở xóm làng
Ai bảo phong độ thanh cao chẳng chữa được cái nghèo
Sau sương hoa cúc trở về với khách rượu
Tứ mai trong tuyết thích hợp với thi nhân
Bên cuộc ngâm hai mí tóc bơ phờ ở nơi quán khách
Trong giấc mơ thấy mình là tấm thân tám cánh bay lên cửa trời (2)
Trăng thanh bến mây nơi ngóng trông nhau
Nơi cố nhân đến sẽ là một mùa xuân trong sáng.

Ghi chú
1. Kiểm chính Hồng Châu: tức Nguyễn hán Anh, em rể (em đồng hao) của tác giả.
2. Tấm thân tám cánh bay lên cửa trời: Theo Tấn thư, Đào Khản, nằm mộng thấy mình mọc 8 cánh bay lên trời, vào tám lần cửa rồi bị gãy cánh bên trái nên phải xuống. Ở đây Nguyễn Phi Khanh mơ mình làm quan to.

Dịch thơ
1.
Muôn dân cơm áo chực nhao nhao
Vàng bạc nhà ai sánh núi cao
Anh giống xe lăn trong hiểm trở
Tôi như thuyền dạt giữa ba đào
Làng vua, tứ khách, mưa chiều đến
Việc cũ, phòng văn, chuyện thuở nào
Gió tỉnh hồn mơ tin gửi đến
Bờ nam đứt ruột bốn năm châu.

Đã từng thi đậu nức hương lân
Ai bảo thanh phong chẳng chữa bần
Hoa cúc sau sương vời khách rượu
Tứ mai giữa tuyết gợi hồn văn
Đôi làn tóc rối tình quê khách
Tám cánh bay cao mộng cửa thần
Mây bến trăng thành trông ngóng mãi
Cố nhân khi tới sắp thanh xuân.
                      Nguyễn Đức Vân dịch

2.
Muôn dân nháo nhác áo cơm
Nhà ai vàng ngọc như rơm chất đầy
Nhân tình gian hiểm anh xoay
Đường đời sóng gió tôi nay lái chèo
Quê vua khách gặp mưa chiều
Phòng văn chuyện cũ gợi nhiều chuyến đi
Gió tây tỉnh mộng tin về
Phía nam mấy quân tai nghe quặn lòng.

Học hành nổi tiếng xóm quê
Thanh cao phong độ ai chê rằng nghèo
Sau sương khách rượu cúc theo
Ý mai trong tuyết lại chiều thi nhân
Ngâm nga quán khách nghỉ chân
Nằm mơ tám cánh phi thân lên trời
Bến mây thành nguyệt trông vời
Cố nhân nơi đến trong ngời mùa xuân.
                          Đỗ Đình Tuân dịch

14/4/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét