Bài 6
重遊春江有感
去年三月珥河津
麗服相隨五六人
岸草無情春自綠
江流在眼客還新
清吟雨後邀紅葉
緩棹風前過白蘋
長恐寸心遥嵬闕
五湖天載讀書身
阮飛卿
Phiên âm:
Trùng du xuân giang hữu cảm
Khứ niên tam nguyệt Nhĩ Hà tân
Lệ phục tương tùy ngũ lục nhân
Ngạn thảo vô tình xuân tự lục
Giang lưu tại nhãn khách hoàn tân
Thanh ngâm vũ hậu yêu hồng diệp
Hoãn trạo phong tiền quá bạch tần
Trường khủng thốn tâm dao ngụy khuyết
Ngũ hồ thiên tải độc thư thân.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
Cảm xúc khi đi chơi sông Xuân Giang lần thứ hai
Tháng ba năm ngoái trên bến Nhị Hà
Mặc áo đẹp theo sau có dăm sáu người
Bờ cỏ vẫn vô tình xuân về tự tốt tươi
Dòng sông trước mắt vẫn như xưa mà khách thì lại mới
Sau cơn mưa ngâm nhè nhẹ đón chiếc lá hồng
Trước làn gió chèo khoan thai qua bãi tần trắng
Luống sợ tấc lòng xa nơi cung khuyết
Để chiếc thuyền Ngũ Hồ riêng chở kẻ thư sinh.
Dịch thơ:
1.
Tháng ba năm ngoái trên sông Nhị
Sáu bấy người theo đẹp áo khăn
Cỏ bãi hững hờ xuân tự biếc
Dòng sông quen thuộc khách như tân
Sau mưa ngâm nhẹ ca hồng diệp
Trước gió chèo khoan lướt bạch tần
Tấc dạ vẫn lo xa khuyết ngọc
Ngũ Hồ riêng chở khách làng văn.
Đào Phương Bình dịch
2.
Nhị Hà năm ngoái tháng ba chơi
Áo đẹp theo sau sáu bảy người
Sông vẫn như xưa mà khách mới
Cỏ vô tình mọc tự xanh tươi
Chèo khoan trước gió rau tần trắng
Ngâm nhẹ sau mưa lá đỏ rơi
Tấc dạ những lo xa cửa khuyết
Hải hồ riêng chở khách văn thôi.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 7
秋城晚望
木落都城九月天
斜陽罩地截雲煙
離鴻遠遠迎風陣
隙月涓涓隔樹懸
吟兴四時秋易感
人生萬事老堪憐
兵戈况復鵰殘後
遥望晴旻一慨然
阮飛卿
Phiên âm
Thu thành vãn vọng
Mộc lạc đô thành cửu nguyệt thiên
Tà dương tráo địa tiệt vân yên
Ly hồng viễn viễn nghênh phong trận
Khích nguyệt quyên quyên cách thụ huyền
Ngâm hứng tứ thời thu dị cảm
Nhân sinh vạn sự lão kham liên
Binh qua huống phục điêu tàn hậu
Dao vọng tình mân nhất khái nhiên.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
Chiều thu đứng trông ở trên thành.
Lá cây rụng ở đo thành dưới bầu trời tháng chín
Bóng chiều lồng mặt đất cắt ngang mây khói
Đàn chim hồng biệt ly xa xa bay ngược gió
Vầng trăng treo ngọn cây bong xuyên qua kẽ lá
Hứng ngâm thơ bốn mùa đến mùa thu là dễ cảm nhất
Muôn việc trong đời người đến tuổi già càng đáng thương
Huống chi lại là cảnh điêu tàn sau cơn binh lửa
Trông vời trời tạnh một phen ngậm ngùi.
Dịch thơ:
1.
Đô thành tháng chín lá theo sương
Mây khói chiều tà vệt cắt ngang
Đón gió trận giăng bầy nhạn thẳm
Treo cây kẽ lọt ánh trăng vàng
Bốn mùa thu hứng thu sinh cảm
Muôn việc đời người lão đáng thương
Huống lại điêu tàn sau lửa chiến
Vời trông trời tạnh ngậm ngùi vương.
Đào Phương Bình dịch
2.
Đô thành tháng chín lá rơi đầy
Tia nắng chiều xuyên cắt khói mây
Hồng nhạn xa xa bay ngược gió
Vầng trăng vời vợi cách vòm cây
Bốn mùa ngâm hứng thu thêm hứng
Muôn việc đời người lão khổ thay
Huống lại điêu tàn sau lửa chiến
Trông vời trời tạnh ngậm ngùi vay.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 8
甲子夏旱有勅諸路
禱雨未禱而先雨
炎炎九土正焦燖
一雨皇天普澤深
請罪國將行盛禱
初和民已浹歡心
卧龍自是人間物
肖象能为歲旱霖
徙巿暴尪何用者
至誠感召古猶今
阮飛卿
Phiên âm
Giáp tý hạ hạn hữu sắc chư lộ
đảo vũ vị đảo nhi tiên vũ
Viêm viêm cửu thổ chính tiêu tầm
Nhất vũ hoàng thiên phổ trạch thâm
Thỉnh tội quốc tương hành thịnh đảo
Sơ hòa dân dĩ thiếp hoan tâm
Ngọa long tự thị nhân gian vật
Tiếu tượng năng vi tuế hạn thâm
Tỉ thị bộc uông hà dụng giả
Chí thành cảm triệu cổ do câm.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
Mùa hạ năm Giáp Tý (1384 ) hạn hán
vua có ssắc cho các lộ cầu mưa
chưa cầu trời đã mưa
Rừng rực đất đai khắp nước đang lúc khô cháy
Một trận mưa của trời gieo khắp ơn sâu
Quốc gia sắp làm lễ thỉnh tội để cầu mưa trọng thể
Trời mới đem lại khí hòa dân đã thấm khắp niềm vui
Rồng vốn là con vật của nhân gian
Tiếu tượng của trời có thể hẹn mưa dầm trong năm hạn
Chẳng phải dung làm gì cái lễ đưa một thân hình gầy còm ra phơi ngoài chợ
Xưa nay chỉ có lòng chí thành là cảm đến trời.
Dịch thơ
Đất đai khắp nước nẻ như phơi
Một trận mưa ơn thấm mọi nơi
Hỏi tội triều đình làm lễ trọng
Thấy cơn dân đã thảy tươi cười
Làm mưa đâu phải do rồng vậy
Thắng hạn nhờ vua ân đức thôi
Chớ lấy nô gầy phơi giữa chợ
Thành tâm thì cảm được ông trời.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 9
村家趣
菢篱竹樹萬條槍
老屋弓餘古寺傍
過雨池塘蛙語聒
落花庭院燕泥香
閑情湛湛春醪足
世路芒芒午睡長
醒後出門擕僕去
逢人只向說農桑
阮飛卿
Phiên âm
Thôn gia thú
Bão ly trúc thụ vạn điều thương
Lão ốc cung dư cổ tự bang
Quá vũ trì đường oa ngữ quát
Lạc hoa đình viện yến nê hương
Nhàn tình trạm trạm xuân giao túc
Thế lộ mang mang ngọ thụy trường
Tỉnh hậu xuất môn huề bộc khứ
Phùng nhân chỉ hướng xuất nông tang.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
Thú quê nhà
Rào tre bao quanh nhà có muôn nhánh nhọn
Nhà cũ độ hơn một cung ở bên ngôi chùa cổ
Mưa tạnh ao chuôm inh ỏi tiếng ếch
Hoa rụng đình viện ngát thơm bọt én
Cảnh nhàn tênh tênh rượu xuân uống đẫy
Đường đời man mác giấc ngủ kéo dài
Tỉnh dậy ra cửa dắt đầy tớ đi theo
Gặp ai cũng chỉ nói chuyện nông tang.
Dịch thơ
Rào trúc bao quanh nhọn túa rua
Độ hơn cung rộng cạnh ngôi chùa
Ao chuôm ếch nhái kêu inh ỏi
Bọt én hoa vườn phảng phất đưa
Nhàn rỗi tênh tênh thêm rượu đẫy
Đường đời man mác lại say sưa
Tỉnh ra đầy tớ cho theo gót
Ai gặp toàn hay chuyện lúa ngô.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 10
遊佛蹐山對江偶作
半生塵土負登臨
光景蹉跎 便到今
浮世百年真一瞬
古人片樂值千金
前川午日傍花兴
沂水春風與物心
仰止高山懷曩哲
澗河路次正幽尋
阮飛卿
Phiên âm:
Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác
Bán sinh trần thổ phụ đăng lâm
Quang cảnh tha đà tiện đáo câm
Phù thế bách niên chân nhất thuấn
Cổ nhân phiến lạc trị thiên câm
Tiền xuyên ngọ nhật bang hoa hứng
Nghi Thủy xuân phong dữ vật tâm
Ngưỡng chỉ cao sơn hoài nẵng triết
Giản hà lộ thứ chính u tầm.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
Chơi núi Phật Tích đối diện với dòng sông ngẫu nhiên làm thơ
Nửa đời gió bui phụ cảnh núi sông
Ngày tháng sa đà mãi đến ngày hôm nay
Cuộc đời trăm năm thật chỉ như một chớp mắt
Vui chơi một khắc người xưa đánh giá đến ngà vàng
Cái thú kề hoa ngắm sông phía trước trong buổi trời trưa
Lòng cùng cảnh vật sông Nghi trong gió xuân
Ngước nhìn ngọn núi cao nhớ tới những bậc hiền xưa
Dừng lại bên suối tìm đúng cảnh thanh u.
Dịch thơ
Nửa đời quên cuộc ngắm chơi
Dùng dằng ngày tháng bỏ hoài đến nay
Trăm năm chớp mắt qua ngayVui chơi một khắc sánh tày thiên ngân
Ngắm sông xa tựa hoa gần
Lòng cùng gió nước Nghi xuân giao hòa
Non cao trông nhớ hiền xưa
Tìm nơi suối vắng ven bờ nghỉ chân.
Đỗ Đình Tuân dịch
26/3/2012
Đỗ Đình Tuân
26/3/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét