Bài 11
秋日遣兴
客枕槐 亭又塞鴻
如霜吟鬢欲成蓬
閉門萬里連朝雨
過眼三秋落葉風
世態任他纨扇薄
閑愁勸我酒杯空
西窻一枕清眠足
更詠新詩课小童
阮飛卿
Phiên âm
Thu nhật khiển hứng
Khách chẩm hòe đình hựu tái hồng
Như sương ngâm mấn dục thành bồng
Bế môn vạn lý liên triêu vũ
Quá nhãn tam thu lạc diệp phong
Thế thái nhậm tha hoàn phiến bạc
Nhàn sầu khuyến ngã tửu bôi không
Tây song nhất chẩm thanh miên túc
Cánh vịnh tân thi khóa tiểu đồng.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa
Khiển hứng ngày thu
Gối khách đình hòa lại như chim hồng ngoài bãi
Mái tóc nhà thơ như sương muốn
thành mớ bong bong
Nơi muôn dặm đóng cửa mưa suốt ngày
Gió thu rụng lá lướt qua trước mắt
Thói đời mặc họ như chiếc quạt lụa mỏng manh
Mối sầu vẩn vơ giục ta cạn chén
Chiếc gối bên song ngủ đã đẫy giấc
Lại vịnh thơ mới để dạy tiểu đồng
Dịch thơ
1.
Sân hòe gối khách phận chim hồng
Mái tóc như sương muốn rối tung
Nghìn dặm mưa mai then ních chặt
Ba thu lá rụng mắt buồn trông
Thói đời ấm lạnh tùy tay quạt
Giải muộn xui ta cạn chén nồng
Chiếc gối song tây vừa tỉnh giấc
Vịnh vần thơ mới dạy thư đồng.
Tiên Sơn-Huệ Chi dịch
2.
Thân nơi hòe phủ vẫn long đong
Tóc bạc mà như mớ cỏ bồng
Cửa đóng suốt ngày mưa rả rích
Ba thu lá rụng lướt qua trông
Thói đời ấm lạnh thây tay quạt
Tâm sự buồn vui mượn chén nồng
Chiếc gối bên song khi đẫy giấc
Vịnh bài thơ mới dạy nhi đồng.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 12.
偶作
自詫平生履素絲
文章無分敢論時
展禽焉往非三黜
章子谁雲稬四肢
老即田園真事業
心無暮夜愧妻兒
乾坤形著皆吾道
飛躍高深可遂宜
阮飛卿
Phiên âm
Ngẫu tác
Tự sá bình sinh lý tố ti
Văn chương vô phận cảm luân thì
Triển Cầm yên vãng phi tam truất
Chương Tử thùy vân nọa tứ chi
Lão tức điền viên chân sự nghiệp
Tâm vô mộ dạ quý thê nhi
Càn khôn hình trước giai ngô đạo
Phi dược cao thâm khả toại nghi.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa :
Ngẫu nhiên làm thơ
Bình sinh tự hào đi trên tơ trắng
Không có duyên phận với văn chương
đâu dám bàn việc đời
Triển Cầm đi đâu mà chẳng ba lần bãi truất
Ai bảo rằng Chương Tử nhác biếng chân tay
Tuổi già về ruộng vườn mới đúng là sự nghiệp thật
Đêm hôm khuya khoắt trong lòng
không thẹn với vợ con
Vật hữu hình trong trời đất đều do đạo ta biểu hiện
Chim bay trên trời cao cá nhảy dưới vực sâu
đều có thể thỏa thích.
Dịch thơ
Tự hào tơ trắng từng đi
Văn chương không phận bàn chi việc đời
Triển Cầm xưa đã có lời
Ai rằng Chương Tử hay lười tay chân ?
Ruộng vườn là việc thiết thân
Sớm hôm đỡ thẹn đôi phần vợ con
Đạo ta hiện khắp càn khôn
Chim bay cá nhảy đều luôn thỏa lòng.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 13
家園樂
故園亂後有先盧
六歲兒童頗愛書
啼鳥落花深巷永
涼風殘夢午窻虚
心從閑處千憂失
学到充時四體舒
逐物勞人休誤我
安仁志已遂幽居
阮飛卿
Phiên âm
Gia viên lạc
Cố viên loạn hậu hữu tiên lư
Lục tuế nhi đồng phả ái thư
Dề điểu lạc hoa thâm hạng vĩnh
Lương phong tàn mộng ngọ song hư
Tâm tòng nhàn xứ thiên ưu thất
Học đáo sung thời tứ thể thư
Trục vật lao nhân hưu ngộ ngã
An nhân chí dĩ tại u cư.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
Thú quê nhà
Sau loạn trong vườn cũ còn mái nhà xưa
Đứa trẻ sáu tuổi đã ham đọc sách
Chim kêu hoa rụng ngõ sâu vắng vẻ
Gió lạnh mộng tàn song trưa trống trải
Lòng hướng về cái nhàn ngàn mối lo tan hết
Học đến mức sung mãn chân tay thư thái
Chạy theo vật dục người đời nhọc nhằn
ta chớ lầm nữa
Được ở chỗ thanh u chí an nhàn đã toại rồi.
Dịch thơ:
1.
Loạn xong vườn cũ mái nhà xưa
Ham học mừng ta có trẻ thơ
Hoa rụng chim kêu bên ngõ vắng
Mộng tàn gió mát dưới song trưa
Tâm hồn thanh thản ngàn lo hết
Học vấn sâu xa tứ thể thư
Dục vọng chớ nên lừa gạt mãi
An nhàn chí đã thuận u cư.
Đào Phương bình dịch
2.
Loạn về vườn cũ nhà xưa
Đứa con sáu tuổi đã ưa sách đèn
Chim kêu hoa rụng trước thềm
Ngõ sâu gió lạnh mộng tàn song trưa
Hướng nhàn lòng hết âu lo
Học hành đẫy độ thì thư thái người
Chạy theo vật dục kệ đời
Chí nhàn ta đã toại rồi... u cư.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 14
上胡承旨宗鷟
京國擕書二十年
登龍每恨欠前緣
夢隨翰菀清風外
春在東亭白酒邊
萬丈光芒窺太白
一團和氣挹伊川
寸懷別後勞傾仰
耿耿高明月夜懸
阮飛卿
Phiên âm
Thướng Hồ thừa chỉ Tông Thốc
Kinh quốc huề thư nhị thập niên
Đăng long mỗi hận khiếm tiền duyên
Mộng tùy hàn uyển thanh phong ngoại
Xuân tại đông đình bạch tửu biên
Vạn tượng quang mang khuy Thái Bạch
Nhất đoàn hòa khí ấp Y Xuyên
Thốn hoài biệt hậu lao khuynh ngưỡng
Cảnh cảnh cao minh nguyệt dạ huyền.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
Dâng lên quan thừa chỉ Hồ Tông Thốc
Du học ở kinh kỳ hai chục năm nay
Thường ân hận thiếu cái duyên may
được bước lên cửa rồng
Hồn mộng bay theo gió mát nơi vườn văn
Lòng xuân để lại bên chén rượu trắng
cỗ đông đình
Sáng ngời muôn trượng nhìn thấy sao Thái bạch
Hòa khí một vùng múc ngòi Y Xuyên
Sau khi tạm biệt nghiêng dốc một lòng chiêm ngưỡng
Vằng vặc vầng trăng treo trong khoảng đêm trường.
Dịch thơ
1.
Đèn sách kinh kỳ mấy chục niên
Cửa rồng thường hận thiếu nhân duyên
Mộng theo hàn uyển hoa cười gió
Xuân tỏa đông đình rượu ngát men
Tia sáng muôn trùng nhòm Thái Bạch
Khí hòa một áng múc Y Xuyên
Sau ngày tạ biệt luôn chiêm ngưỡng
Vắng vặc vầng trăng treo phía trên.
Đào Phương Bình dịch
2.
Học kinh kỳ hai chục năm nay
Chưa đến sân rồng hận kém may
Hàn uyển mộng theo ngoài gió mát
Đông đình lòng để rượu trong say
Nhìn sao Thái Bạch ngời muôn trượng
Múc nước Y Xuyên hòa khí đầy
Tạm biệt lòng riêng hằng ngưỡng mộ
Trăng treo vằng vặc giữa cao dầy.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 15
春寒
凝雲莫莫霧沉沉
釀作餘寒十日陰
帯雨有痕黏樹蕠
傖春無語隔花禽
書齋寂寂惟高枕
世事悠悠正雹衾
安得此身如橐籥
和風噓遍九州心
阮飛卿
Phiên âm
Xuân hàn
Ngưng vân mạc mạc vụ trầm trầm
Nhưỡng tác dư hàn thập nhật âm
Đới vũ hữu ngân duy thụ nhự
Thương xuân vô ngữ cách hoa cầm
Thư trai tịch tịch duy cao chẩm
Thế sự du du chính bão khâm
An đắc thử thân như thác thược
Hòa phong hư biến cửu châu tâm.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa
Rát mùa xuân
Mây đọng ùn ùn mùa sa nặng trĩu
Trận rét cuối mùa mười ngày âm u
Tơ liễu dính trên cây đeo chuổi nước mưa thành vệt
Chim đậu bên hoa thương xuân lặng tiếng
Thư phòng vắng vẻ chỉ có việc cao gối
Việc đời dằng dặc chính lúc ôm chăn
Mong sao thân này được như cái ống bễ
Thổi khắp gió hòa vào khắp lòng người chín châu.
Dịch thơ
Ùn ùn mây đọng nặng sương rơi
Trận rét cuối xuân chục bữa rồi
Tơ liễu dính mưa treo chuỗi hạt
Bên hoa chim chẳng cất lên lời
Đành kê cao gối trong phòng sách
Chính lúc ôm chăn ngẫm sự đời
Mong hóa thân này thành ống bễ
Thổi luồng khí ấm đến nơi nơi.
Đỗ Đình Tuân dịch
27/3/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét