Bài 141
Ngô huyện Lão sơn
吾縣老山
吾
平日未嘗一登春前閣老阮翁約某同往因以事牽不果此心殊鬱鬱也歸而訪之則山上惟有一石方如棋盤號曰仙棋今牧童多以樗蒲為戱西北有一井號曰仙井相傳深至江底至
今漸塞此外別無奇花異卉亦無燠館凉庵時方盛夏是以不敢再訂昨來訪翁適見裴使君話謂所得新樣洋布厚可以却寒疎可以迎凉彩不混列示有文也曠不露体示有禮也將製
為二服以贈吾二人某聞之曰快哉斯山亦可以自適矣因賦詩以呈
Ngô
bình nhật vị thường nhất đăng, xuân tiền các lão Nguyễn ông ước mỗ đồng vãng,
nhân dĩ sự khiên bất quả, thử tâm uất uất dã. Quy nhi phỏng chi , tắc sơn thượngduy
hữu nhất thạch, phương như bàn kỳ, kim mục đồng đa dĩ sư bồ vi hí.Tây bắchữu nhất
tỉnh, hiệu viết tiên tỉnh, tương truyền thâm chí giang để, chí kim tiệm tắc.thử
ngoại biệt vô kỳ hoa dị hủy, diệc vô úc quán lương am.thời phương thịnh hạ, thị
dĩ bất cảm tái đính. Tạc lai phỏng ông, thích kiến Bùi Sứ Quân thoại vị: “sở đắc
tân dạng dương bố, hậu khả dĩ khước hàn, sơ khả dĩ nghinh lương, thái bất hỗn
liệt, thị hữu văn dã, khoáng bất lộ thể,thị hữu lễ dã, tương chế vi nhị phục dĩ
tặng ngô nhị nhân”. Mỗ văn chi viết: “Khoái tai tư y, đăng tư sơn diệc khả dĩ tự
thích hĩ”. Nhân
phú thi dĩ trình:
举目江山兴自豪
|
Cử mục
giang sơn hứng tự hào
|
油然神往不知勞
|
Du nhiên
thần vãng bất tri lao
|
此中皆兴正堪賞
|
Thử
trung giai hứng chính kham thưởng
|
一片塵心却未涛
|
Nhất
phiến trần tâm khước vị đào
|
離素幾年愁獨坐
|
Ly tố kỷ
niên sầu độc tọa
|
徘徊舊路畏登高
|
Bồi hồi
cựu lộ úy đăng cao
|
衹今此兴能如願
|
Chỉ kim
thử hững năng như nguyện
|
為有裴君訂贈袍
|
Chỉ hữu
bùi quân đính tặng bào
|
Núi An Lão ở huyện ta
Trước nay ta chưa lên lần nào, mùa xuân vừa rồi, ông
các lão họ Nguyễn hẹn ta cùng đi thăm núi, rồi nhân bận việc không đi được, vẫn
áy náy trong lòng. Khi về hỏi thăm ra thì trên núi ấy chỉ có một hòn đá vuông
như bàn cờ, gọi là bàn cờ tiên, ngày nay trẻ chăn trâu thường lấy đó làm chỗ
chơi xúc xắc. Phía tây bắc có một cái
giếng gọi là giếng tiên, tương truyền sâu tới đáy sông, nay đã bị lấp dần.
Ngoài ra không có một thứ hoa thơm cỏ lạ nào, cũng không có am quán để ngồi ấm
hay hóng mát gì cả. Lúc đó đương giữa mùa hè cho nên không dám hẹn lại một ngày
khác. Bữa nọ ta đến thăm ông, chợt gặp Buid Sứ Quân (1), nói chuyện có kiếm
được một thứ vải tây kiểu mới, dầy có thể chống rét, thưa có thể hóng mát, hoa
dệt thành hàng rành rọt, đó là có văn; thoáng không lộ liễu đó là có lễ. Ông
sắp đem may làm hai cái áo để tặng hai chúng tôi. Tôi nghe chuyện liền nói: “Có
áo như thế thật là khoái. Người mặc để lên núi nàycó thể thảnh thơi tự thích
được”. Nhân làm thơ trình như sau:
Ngước mắt nhìn non sông tự thấy hào hứng
Phơi phới lên chơi bằng tinh thần không thấy mệt nhọc
Trong đó thú vui thật đáng thưởng thức
Một tấm lòng trần mình chưa rửa sạch được
Mấy năm nay xa cách bạn bè buồn có một mình
Chỉ loanh quanh trên con đường cũ ngại nỗi trèo cao
Ngày nay hứng ấy được thỏa mãn
Là vì có bác bui hứa hẹn cho áo.
1.
Bùi Sứ Quân: tức
Bùi Dị, tức Bùi Ân Niên, người làng Châu Cầu (xem bài 36)
Đỗ Đình Tuân dịch thơ:
Nhìn non sông thấy tự hào
Trong lòng phơi phới ước ao
lâu rồi
Muốn lên thưởng lãm thú vui
Lòng trần chưa sạch nên lười
không đi
Bấy nay xa cách bạn bè
Ngại trèo, luẩn quẩn ngõ quê
quanh làng
Hôm nay thú lại dâng tràn
Thích manh áo mới lại càng
muốn đi.
31/01/2015
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét