Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Hồi ký NMNC - CHƯƠNG 6: THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Thăm quê chồng
              Vài tháng sau khi chị tôi mất, là giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Tối ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi lên bờ hồ Hoàn Kiếm hòa vào trong dòng người nô nức đón tin vui. Hôm đó là thứ mấy, tôi không nhớ rõ, sau này tra tìm mới biết là thứ tư, tức là giữa tuần, vậy mà tôi không nhớ sao MQ lại về (hay vì biết tin thống nhất),và lên bờ hồ  tìm gặp được tôi mới là lạ. Chắc MQ tìm đến cái chỗ chúng tôi hay ngồi bên hồ khi đi chơi hoặc dạo trong đêm Noel. Vậy là chúng tôi bỏ hai con nhỏ ở nhà để bà me trông cho, mà lên đây như một cặp tình nhân đang yêu nhau vậy. MQ làm hai câu thơ “tức khẩu” mà tôi cứ buồn cười mãi :
”Anh tìm trong đám muôn vàn
Thấy em mặt tròn như cái bánh xe!”
Ôi sao mà hồi ấy mặt tôi tròn như cái bánh xe được nhỉ? Khi chúng tôi yêu nhau trong trường thì tôi nặng 54 kg, sau khi có con đầu lòng đến lúc này (con thứ hai được hơn một năm), thì tôi sút nhiều chỉ nặng 46 kg thôi, nghĩa là gầy đét mà.Thôi thì tính MQ hay đùa vui nên thế. Chúng tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc, cầm tay nhau dung dăng dung dẻ như hai đứa trẻ, mắt ngời sáng khi đâu đây vẳng lên tiếng trống ếch rộn ràng. Chúng tôi lắng nghe như nuốt lấy từng lời qua loa phóng thanh nói về thời khắc đặc biệt của đất nước, rằng chiến tranh đã chấm dứt rồi, rằng đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất, mà tim cứ đập thình thịch; thi thoảng nhảy cẫng lên reo hò nữa. Những lúc ấy, chúng tôi không kịp nghĩ đến má, sau 30/4 này, má dự định thế nào, và còn các anh của chồng tôi nữa. Chúng tôi chỉ liên tưởng ngay đến cậu Lê Hân, cậu sẽ về Nha Trang đoàn tụ với vợ con sau bao nhiêu năm xa cách.Tóm lại là chúng tôi chỉ hồn nhiên, rất hồn nhiên, và tất nhiên phải về sớm kẻo các con mong, và bắt tội bà me vất vả quá.
            Ít ngày sau, tôi được tin má quyết định về Nha Trang ngay cùng với cậu. Má bảo má về trước, rồi từ từ mấy anh em về sau. Vậy là ngay sau niềm vui chung chấm dứt chiến tranh, tôi lại thấy buồn vì xa má xa cậu, những đấng bề trên tuy không phải ruột thịt, mà là ruột thịt của chồng, và thời gian tuy ngắn ngủi không dài những đã là rất đủ để tôi có những gắn bó thân thương, yêu kính. Chúng tôi tiễn má và cậu đi, những mong cậu về đoàn tụ gia đình thật hạnh phúc, và chỉ nghĩ đơn giản là má trở về sống cùng cậu mợ và các em, trong khi mấy anh em MQ, chưa ai về ngay.
            Nhưng rồi, sự thật không phải thế. Má tôi có những mặc cảm. Mọi khi, chị em có nhau ở ngoài Bắc thì không sao, còn khi trở lại quê hương, má cảm thấy có một mình thật là lạc lõng, má không muốn dù chỉ là vô tình chạm vào hạnh phúc của em trên bất cứ phương diện nào, nên đã trình bày với chính quyền địa phương, xin lại một ngôi nhà thờ của họ Lê để ở tạm một mình. Cũng bởi lẽ ấy, về sau, chúng tôi thường xin nghỉ phép năm để về thăm má, hoặc tôi kết hợp công tác Nha Trang để về sống với má, cho tới ngày má trở về cõi vĩnh hằng.
             Chuyến đi miền Nam của vợ chồng tôi lần đầu tiên là vào năm 1976. Lúc ấy là mùa thu. Chúng tôi mang theo bé Hoa. con gái đầu, cháu gần năm tuổi, còn bé trai thì gửi bà me ở nhà. Trước khi đi, tôi chuẩn bị sẵn, nấu ít cơm nếp đỗ đen và tí muối vừng, gói một loạt bánh chưng con để ăn đường. MQ được đơn vị cho mua theo giá cung cấp một xe đạp nam Trung Quốc, chúng tôi đành bán để lấy tiền vào Nam, và trích riêng một khoản tiền biếu má. Chúng tôi vào Sài Gòn trước, rồi quay ra Nha Trang sau mới trở lại Hà Nội. Để vô Sài Gòn, chúng tôi đi chuyến liên vận tàu hỏa đến Vinh rồi chuyển sang xe khách. Khi đi tàu thì không sao, còn từ lúc chuyển sang ô tô là tôi say ngay, say rất nặng. Không chỉ tôi, con gái tôi bị say luôn. Hai mẹ con thi nhau nôn liên tục. Một mình MQ vừa bế con ngồi lòng, phục vụ bé vừa đỡ đần tôi nữa. Mọi người ở trên xe ái ngại lắc đầu bảo “Gớm cái nhà anh này sao mà khổ, ai đời cả hai mẹ con cùng yếu và say thế cơ chứ” Tôi nôn liên tục, hết thức ăn thì đến mật xanh mật vàng và mặt cắt không còn hạt máu, người rũ ra. Còn con tôi thì nôn lung tung vào cả quần bộ đội của bố. Cái trò nôn say xe, ai trải qua mới biết, cứ nôn thế cho tới khi xuống xe mới thôi. Không thể tự nhiên cả chiếc xe lớn, chở bao nhiêu người chỉ vì mẹ con tôi mà thả khách xuống. Nên đành chấp nhận đến chỗ nào lái xe định cho nghỉ mới xuống tạm mà nghỉ. Tôi mệt lắm, không ăn uống gì được, chỉ nhắc MQ chịu khó lấy đồ ăn nước uống mang theo mà dùng kẻo mệt quá. Nhắc vậy, chứ tình thực MQ không có lúc nào mà ăn cả, cứ hết quay sang vợ lại quay sang con, thay khăn thay túi. Mãi sau, có lúc xe đỗ tạm để khách xuống “tự giải quyết nỗi buồn” thì tôi mới cố ôm con ngật ngưỡng và bảo MQ tranh thủ ăn uống tí chút gì thôi.
               Xe chạy tới Huế thì dừng hẳn, ngủ qua đêm luôn sớm mai chạy tiếp. Vợ chồng tôi lếch thếch khăn gói vào quán ăn nhỏ đồng thời là quán trọ nghỉ tạm. Lần đầu tiên trong đời tôi được nghe những âm thanh là lạ, những tiếng rao, tiếng mời chào rộn ràng, trong trẻo của các cô gái, của các bé bán rong đủ kiểu. Tự nhiên, người cảm thấy tỉnh hẳn ra. Chắc vì xuống xe chân được tiếp đất rồi nên bớt say. MQ mua bún bò cho hai mẹ con ăn. Bún nóng sốt thơm ngon nhưng cay ơi là cay. MQ lôi ra ăn nốt mấy nắm cơm nếp đậu đen chấm muối vừng mang từ nhà. Trời nóng, xe bí nên cơm nắm bánh chưng đều hơi chua ôi thiu rồi, mà vẫn phải ăn. Tôi tiếc công mình chuẩn bị chu đáo ai ngờ say quá không tiêu thụ được để bây giờ đồ ăn tanh bành thế này. MQ ăn xong chút ít, ăn cơm nếp là chính, còn một đống bánh chưng tôi đưa biếu chị chủ quán. Chị có một đàn con có vẻ vất vả nhếch nhác lắm. Tôi bảo chị chịu khó bóc ra đem rán lên mà ăn hộ bọn tôi cho đỡ phí. Tôi đặt con gái ngủ tạm, MQ đi tìm mua thuốc chống say cho tôi về mệt quá ngủ ngay, chỉ tôi là thao thức suốt đêm chờ trời sáng và nhẩm tính giờ đến Sài Gòn.
           Từ Huế đi tiếp chặng đường dài mà tôi đỡ nôn hẳn vì có thuốc. Tôi có thể nhấm nháp lúc là bắp ngô luộc, khi thì cái bánh tráng, hay một nắm xôi vàng vàng tim tím. Nhưng tôi còn mệt, nên hầu như không ngồi thẳng được, và xin đổi ra gần thành xe, để tựa ngả đầu sẽ dễ chịu hơn. Mỗi khi lái xe bảo khách xuống nghỉ, MQ đi quanh đấy mua mấy thứ là lạ cho tôi nếm với một vẻ vui thích đặc biệt. MQ muốn nói với tôi rằng, quê anh nói riêng, và miền Trung Miền Nam nói chung có những trái cây, những kiểu bánh, cốc chè như thế đấy, mà quên rằng chính anh, anh cũng đang ngẩn ngơ về chúng. Anh rời xa quê hương cả hai mươi mấy năm còn gì, trong khi anh mới ba chục tuổi đầu. Càng đi sâu về phía Sài Gòn, tôi càng khỏe dần, không lả lướt nữa. Vì đường xá tốt, nên xe chạy cũng nhanh hơn, êm ả, dễ chịu hơn.
            Đến Sài Gòn, chúng tôi thuê một xích lô về nhà chị Hoàn, con bác ruột tôi ở quận 3 thành phố, theo địa chỉ ghi sẵn, vì sau khi thống nhất, chị đã liên lạc với đại gia đình tôi ở Hà Nội rồi. Chúng tôi vào nhà chị, cảm giác đầu tiên là ngột ngạt bởi mùi xăng của mấy chiếc xe máy để ở tầng dưới, và lạ lẫm vì màu sắc của nhiều đồ đạc quanh nhà, chứ không một màu xam xám nhàn nhạt như nhà tôi ngoài kia. Lối vào hơi chật nên phải lách lệt xệt xách đồ đi qua, bỗng khự lại, chúng tôi xuất hiện trước một tấm gương lớn. Tôi rất ngạc nhiên gần như không nhận ra mình. Đầu tóc thì rối bù, mặt mũi lấm lem, áo sơ mi trắng (cố tình làm đỏm đây) xám lại hoen ố loang lổ đầy vết nôn, thức ăn rơi rớt, cái quần đen nhầu nhĩ xộc xệch, chân đi dép lê gì tôi không nhớ rõ. Tóm lại là một hình thù quái dị bẩn thỉu nhem nhuốc không thể tưởng tượng được. Con gái tôi đỡ hơn có lẽ vì có bộ mặt ngây thơ, ngơ ngác dễ thương, nó xóa lấp bớt những vết bẩn lem nhem trên áo trên quần. MQ trông khá hơn nữa, có lẽ vì tôi quen nhìn MQ suốt dọc đường khốn khổ phục vụ hai mẹ con rồi. Tôi xấu hổ lắm, không ngờ mình xuất hiện ở nhà chị với bộ dạng thế này. Cô giúp việc bấm chuông và chị tôi từ trên gác xuống đón chúng tôi lên nhà. Chị em tôi gặp nhau xúc động nhưng chắc không “lắm” vì khi chị di cư vào đây, tôi mới sáu tuổi, còn quá bé. Chị nhận ra tôi bởi chị bảo bé Hoa là hình ảnh y chang của tôi ngày xưa. Chồng tôi gặp chị là lần đầu. Chị xã giao chào hỏi, chứ thực tình tự cảm thấy có cái gì ngăn cách, “chồng cái Thư là bộ đội cộng sản đấy”- chị thường nhắc với mọi người trong họ mỗi lần gặp sau này. Chị chỉ dẫn cho chúng tôi tắm rửa thay quần áo, và một mâm cơm được chuẩn bị sẵn sàng. Chị bảo cả nhà chị ăn rồi, anh thì đi công chuyện chưa về, các con chị đi học cả. Chuyện trò một lát, chị lên tầng để chúng tôi tự nhiên. MQ và bé Hoa ăn ngon lành thích thú, có vẻ như vậy. Còn tôi thì rón rén nhâm nhi tí một. Mâm cơm thật nhiều món ăn, mỗi món đặt trong một cái đĩa hoặc bát xinh xinh, đĩa giò lụa, đĩa giò bò, đĩa xào giá với thịt nạc, bát canh riêu cá, đĩa rau muống xào tỏi, đĩa rau sống, bát mắm tép, đĩa thịt dọi luộc. Nồi cơm điện nhỏ, ba bát ăn cơm càng xinh nữa, tựa như những cái bát ngoài Bắc dùng để rót nước mắm, hoặc để múc chè.Tôi đói bụng, ăn thấy ngon nhưng không dám ăn hùng hục. Tự nhiên, tôi nghĩ, người ta bảo người Hà Nội ăn cơm cái giá cũng cắn đôi. Tôi bật cười, MQ ngơ ngác chả hiểu sao tôi cười. Cuối cùng thì chúng tôi không ăn hết nồi cơm, mặc dù lúc đầu tôi tưởng như tụi này sẽ nuốt chửng cả bát lẫn cơm cùng các thức ăn trên mâm đó. Chắc vì MQ có phần ngại chỉ ăn vừa phải, còn tôi thì rõ là không dám ăn thoải mái. Tôi quá quen cái cảnh xới liền ba bốn bát to thật đầy, cơm gạo mốc cơ, nở tung, chứ không phải cơm gạo mới trắng tinh deo dẻo thế này, và quen gắp những gắp rau to, những đĩa dưa muối đầy có ngọn. Thì thế mới là “Việt cộng” xểnh nhà, không ra thất nghiệp mà là ra ngố thiệt!!!
           Buổi tối cả nhà đoàn tụ. Anh rể về, rất vui vẻ thoải mái. Anh chị có bốn con. Tôi chỉ một cháu, hỏi anh, cháu tên là gì ạ? Anh bảo từ từ đã nhé, anh phải tính tên chúng theo lối gọi thân mật ở nhà "tí teo tèo tẹo" đã. Ôi thật buồn cười và vui. Anh chị đều mải làm ăn, có người giúp việc. Chị là mẹ, lo lắng chăm sóc các con nhiều hơn nên không vô tư và vui tính như anh. Chuyện trò thăm hỏi một lát, anh chị đưa chúng tôi đi ăn hiệu. Anh tự lái xe nhà, một chiếc xe lịch sự, sang trọng. Dọc đường, phố xá sầm uất tấp nập, đèn xanh đèn đỏ đèn vàng hoa cả mắt. Một thành phố phù hoa, tôi chỉ có cảm giác lạ lẫm, chứ không kịp biết mình thích nó hay không. Tôi không được khỏe sau chuyến đi dài, lại bị say xe, nên chỉ thầm mong nhanh đến nơi. Tôi nghe chị nói chuyện câu được câu chăng, đại loại chị ca ngợi thành phố Sài Gòn hoa lệ và hoành tráng, thi thoảng hỏi về Hà Nội, về cuộc sống của chúng tôi ngoài ấy. Tôi cảm nhận được rõ, không biết có lầm không, là chị rất vui nếu chúng tôi xuýt xoa ngưỡng mộ Sài Gòn, và chia xẻ nỗi lo của anh chị về cuộc sống dưới chế độ mới những ngày sắp tới.
           Dần dà, tôi bị cuốn vào cuộc đàm thoại và đỡ say. Đường phố đông nên xe đi chầm chậm.Tôi kể với anh chị về cuộc sống của chúng tôi, về bố tôi, me, dì và anh chị em ở Hà Nội. Khỏi phải nói, nhìn chúng tôi, cách ăn mặc, hành lí đồ dùng mang theo là chị biết chúng tôi sống ra sao rồi. Có điều, tôi bảo chị, bọn em đã quen, nhiều lúc không nhận ra mình khổ cực chi hết, sống đơn giản lắm, và bằng lòng với mình. Tôi giải thích khi chị hỏi, làm gì có chuyện người ngoài đó gầy đến mức cả gần chục người leo lên cành đu đủ mà cành không gẫy! chắc đó chỉ là chuyện hài hước châm biếm thôi. Còn chồng em chị đừng ngại, anh ấy theo ba mẹ tập kết ra Bắc, rồi học đại học cùng lớp với em, năm 1972 anh ấy đi nghĩa vụ quân sự rồi chuyển về dạy học trong quân đội, và thành bộ đội cộng sản thôi mà, người hiền khô và vui tính lắm rồi chị sẽ thấy. MQ nghe tôi nói chỉ cười ngượng. Tôi kể, những năm qua, ngoài Bắc, sống và làm việc kiểu bao cấp nghĩa là nhà nước lo đủ thứ, ai cũng nghèo như ai, gần như vậy! Tất cả quen với chế độ tem phiếu rồi, lương thực thực phẩm vải vóc, đến cả hàng tết nữa, mỗi nhà được mua túi hàng có hộp mứt, ít miến, gói chè, thuốc lá, cả miếng bóng con con nữa đều bằng tem phiếu hết. Chị cứ xoe tròn mắt nghe tôi kể. Vậy mà ai cũng vui vẻ, thương nhau lắm, tình cảm lắm, và chỉ nghĩ là tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền nam ruột thịt, nên có vất vả bao nhiêu đều chịu đựng được. Đến bây giờ, hòa bình thống nhất rồi, chắc nước mình sẽ xây dựng lại dần cho giầu mạnh hơn. Còn các anh chị, bà con trong này, em nghĩ cứ làm ăn bình thường thôi mà. Làm gì quen nấy, các anh chị đang buôn bán cứ buôn bán, phải vất vả lắm mới có cơ ngơi như anh chị phải không ạ chứ có phải mọi thứ từ trên trời rơi xuống đâu. He he cô này nói đặc giọng cộng sản à nhưng có lúc nghe cũng được, chị cười trêu tôi. Mà này, hay là cô vào Đảng rồi? Dạ không, chưa vào, chị ạ, chưa mà, tôi lí nhí đáp. Rồi chị hỏi tôi vào đây được bao lâu, có kế hoạch ý định gì không, cứ yên tâm ở nhà chị nghỉ ngơi nhé đừng ngại gì. Tôi bảo…dạ…mai nhờ chị dẫn tụi em đi thăm bác và các anh chị (khác), trong một vài ngày, rồi bọn em phải về thăm gia đình bên nội của MQ, đi chơi chợ Sài Gòn một chút rồi ra Nha Trang thăm bà nội cháu. Trong suốt cả chặng đường nói chuyện khá nhiều với anh chị, tôi không ca ngợi Sài Gòn hoa lệ, bởi không phải giống lúc trước là chưa kịp biết thích hay không thích, mà thực lòng lúc này tôi chưa thấy thích. Và chính cái sự không ca ngợi ấy, hình như, khiến chị tôi không khoái lắm. Tôi không nói dối để lấy lòng chị được.
             Đến cửa hiệu ăn rồi. Chúng tôi được anh chị thết thịt bò bảy món. Tôi biết đó là món ăn ngon sang trọng nhưng vì tôi còn mệt nên ăn uống lờ đờ chứ không phải vì gìn giữ ý tứ gì. Tất nhiên, để ăn được, anh chị phải hướng dẫn chứ vợ chồng tôi ngố lắm, có biết gì đâu. Bé Hoa ngơ ngác nhìn, tuy không nói ra được nhưng chắc cháu thấy mình và bố mẹ như có phép thần thông bay đến một thiên đường kì lạ đầy rẫy sắc màu rực rỡ, và món ăn ngon chưa bao giờ nếm thử trong đời. Thật là đầy rẫy mâu thuẫn, tôi dùng chữ "thiên đường" cho vui vậy, chứ không có nghĩa là tôi ước mơ sẽ được sống mãi thế này.
             Ra về, nghỉ ngơi một chút, vệ sinh rồi đi ngủ. Vẫn thế, chỉ có bố con MQ ngủ, còn tôi nằm nghĩ liên miên, tưởng tượng rồi mình gặp những ai, đi những đâu, và bao giờ thì gặp má, gặp cậu, xem má và cậu mợ sống ra sao đoàn tụ thế nào.
             Hôm sau, chúng tôi thăm chị Nguyệt và chị Trà (hai chị sống độc thân), và gia đình anh Thụy với bác dâu, gia đình chị Mẫn. Hai chị ở hai nhà khác phố nhưng gần nhau. Cả hai chị đều không lấy chồng, sức khỏe yếu. Với ai cũng thế, khi mới gặp, các anh chị đều như ngại ngại, ngại nhất là cô em mình cứ đi kè kè với “anh cách mạng”, mà sao không kè kè được, chồng nó mà lại! Nhưng chỉ sau ít phút, chúng tôi đã phá tan không khí căng căng ấy bằng những câu nói mộc mạc, giản dị mà khôi hài. Các anh chị hầu như quên mất, tôi là cô em bé nhất nhà, cách xa các anh chị tuổi đời, ngày các anh chị ra đi tôi không biết không nhớ gì, chỉ mải mê chơi trò bán hàng, ô ăn quan, đánh chắt đánh chuyền thôi. Cứ thế, nhất là các chị, thôi thì chuyện ngày xưa, chuyện từ khi còn ở làng quê, chuyện ở Hà Nội đủ thứ các chị tuôn trào vừa kể vừa khóc, khóc rồi lại cười khiến tôi xúc động mặc dù có những chuyện nghe lạ lắm, tôi không có khái niệm gì. Vì thời gian ít, tôi không dám ngồi yên hoặc nằm mãi trên giường nghe các chị tâm sự, tôi phải ngồi dạy tranh thủ vừa nghe chuyện vừa lấy chổi buộc cán vào quét mạng nhện trên trần nhà, nhất là hai chị độc thân tuổi cao mà còn hay bị chóng mặt nữa. Rồi tôi lau nhà, dọn dẹp những chỗ vướng mắt. Chả gì thì tôi còn trẻ, mới 28 tuổi thôi mà. Tôi bảo các chị trông tôi gầy gầy thế thôi chứ tôi làm khỏe lắm, các chị đừng ngại.
               Hôm sau nữa, chúng tôi xin phép đi thăm bên họ nội. Chả là anh Hồ Vinh, con bác ruột của MQ đã gửi thư liên lạc từ trước nên chúng tôi mới biết đường vào. Chúng tôi tới khu dệt Bảy Hiền. Nhiều bà con họ hàng bên nội của chồng tôi rời Quảng Nam ra đây làm ăn từ lâu. Chúng tôi nghỉ chính tại nhà bác dâu (bác ruột của MQ đã mất sớm), ở cùng với chị Hai Ngự của MQ, chị không lấy chồng. Suốt ngày máy dệt chạy ầm ầm, bác và chị nói tiếng Quảng Nam, tôi không hiểu, MQ phải “phiên dịch” hộ. Bác và các anh chị rất tình cảm, có vẻ rất thương quí MQ, và quan tâm đến hai mẹ con tôi lắm. Chị Hai hay dẫn mẹ con tôi ra chợ cho ăn đủ thứ quà bánh, qua hiệu bánh mua mấy trăm gram bánh qui ngon ơi là ngon. Nhắc đến bánh qui tôi chợt nhớ ở ngoài Bắc, mỗi dịp tết, tôi mang 2 kg bột mì (mua theo tiêu chuẩn lương thực), 10 quả trứng gà, 1 kg đường ra xếp hàng thuê làm bánh qui. Phải đi từ giữa đêm, tự đánh lấy trứng, trộn đường, trộn bột vào rồi nhà chủ đánh cho nhuyễn lăn ra từng lớp mỏng, khách tự ấn khuôn cho ra bánh qui theo các khuôn mẫu, xong nướng lò từng khay, khi ra lò bánh thơm phức nhưng ăn thì cưng cứng, không thể mềm mà vẫn xốp thơm sực mùi bơ như bánh chị mua ở đây. (cứng vậy mà bọn trẻ chả được ăn thoải mái, vì mẹ cháu còn giữ để mời khách đến nhà chúc tết).
             Bữa nào chị cũng lo thổi nồi cơm rõ đầy, kho cá biển thật ngon, chúng tôi ăn veo veo. Ở đây, mặc dù là họ nhà chồng, nhưng tôi cảm thấy rất thoải mái. Ngoài cơm cá là chính, chị còn hay làm món bánh tráng cuốn rau sống với thịt heo và tôm, nấu mì Quảng cho ăn nữa. Bác và chị luôn chăm sóc, nhìn chúng tôi ăn với vẻ thương cảm đặc biệt ánh lên từ những đôi mắt dịu hiền, khiến tôi rất cảm động, mặc dù tôi ít nói vì “bất đồng về ngôn ngữ” và lắm khi mắc cỡ. Bác gái luôn kể chuyện về má chồng tôi, rằng ngày xưa hai chị em cùng làm dâu, má thương bác lắm, má hay dúi cho bác mấy đồng ăn quà, hoặc chăm bác tận tình khi đau ốm. Rồi chúng tôi được dẫn sang nhà bác dâu khác (vợ hai của bác ruột MQ), ở với các anh Hồ Cảnh và Hồ Vinh. Bác gái là người Bắc, khi ấy nhà nghèo lắm, tôi nhớ trong nhà còn một quả trứng vịt thôi, nhưng bác dành cho bé Hoa khiến tôi rất cảm động. Rồi chúng tôi thăm vợ chồng chị Ba là em gái chị Hai Ngự. Anh chị đông con, làm nghề dệt vất vả, cháu đầu lòng thì bị tật, cả nhà cũng quan tâm thật tận tình. Các anh các chị ái ngại cho vợ chồng tôi vì cứ tự hình dung ra cảnh khổ cực hơn cả thực tế chúng tôi chịu đựng. Chúng tôi phải giải thích thanh minh hoài, rằng cả hai tụi em đều có lương nhà nước, được cung cấp đủ thứ thiết yếu là tốt rồi; chưa có nhà riêng nhưng con nhỏ nên ở nhờ tạm bên ông bà ngoại, hoặc nếu không thì ở khu tập thể của trường, chứ không phải "màn trời chiếu đất" đâu. Các anh chị bảo chúng tôi hãy đưa các con vào đây, rồi làm nghề dệt, có nhiều công việc lắm, từ từ là quen. Chúng tôi cảm động vì sự quan tâm của các anh chị nhưng cảm ơn và từ chối. Tóm lại chỉ mấy ngày thôi, Bảy Hiền đã để lại trong tôi những tình cảm thân thương khó tả.
                Chúng tôi tìm đến chợ Trời của Sài Gòn. Ở đây có bán cơ man nào quần áo, mới cũ đủ kiểu. Chúng tôi xà vào đống quần áo cũ lục lọi mê mẩn, nhưng mua rất ít, không vì đắt, vì sợ quần áo bẩn, mà vì phải giữ tiền, hành trình còn xa lắm, và nhất là phải để tiền biếu má. Bấm bụng mãi, tôi mua một con búp bê to cho con chơi, tịnh không khuân vác hàng hóa gì cả.
                 Không mua hàng hóa, nhưng các bác và mấy anh chị ở  hai họ đều cho quà miền Nam, nào là vải may quần áo, chồng đĩa nhựa to tướng, đồng hồ đeo tay xinh xinh, bánh trái các loại. MQ nhất quyết mang ra Bắc một chồng bánh tráng dày để làm món cuốn mà cả hai vợ chồng đều thích. Chúng tôi phải từ chối bớt quà, vì ngại mang nặng, đường xa mà tôi thì say xe, còn về thăm má nữa, đi lại lếch xếch lắm thứ chỉ khổ thân MQ thôi. Với lại, thực tâm sâu xa, tôi cảm thấy lòng tự ái luôn trỗi dạy khi văng vẳng đâu đây, người ta vẫn bảo “miền Nam nhận họ , miền Bắc nhận hàng”, tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Nói có quỉ thần hai vai chứng giám, ngày đó dù rất nghèo và thiếu thốn đủ thứ, nhưng chúng tôi không ham hố cái gì. Nhất là tôi lại có hoàn cảnh đặc biệt, như phần đầu kể, khiến tôi ghét …tiền nên càng không tham!!! Tuy nhiên, khi trở ra, vợ chồng tôi không cách gì chối từ được, đó là phải nhận từ bác dâu và chị Hai Ngự hai chỉ vàng – cầm trong tay nâng niu mà không hề có khái niệm nó quí đến mức nào, có giá trị cụ thể ra sao chỉ biết rằng đó không chỉ mang ý nghĩa vật chất, mà là tấm lòng là tình yêu thương của bác, của chị. Và sau này ra Bắc, thi thoảng tôi cứ giở ra ngắm nhìn để đắm chìm trong một nỗi xúc động nghẹn ngào khó tả.
           Chúng tôi rời Sài Gòn đi Nha Trang, lần này có thuốc chống say của chị Hoàn chuẩn bị cho, hai mẹ con tôi không bị nôn nữa mới thần kì chứ. Tôi chỉ mệt và xuống cuối  xe xin nằm ở mấy ghế thừa không ai ngồi, hoặc sau đó trở ra Đà Nẵng, Huế, nếu xe chật chội thì nói mọi người thông cảm rải ni lông ngay lối đi mà nằm cho đỡ cảm giác buồn nôn.
             Về Nha Trang, thật cảm động khi được gặp lại má, gặp lại cậu - và bây giờ gặp thêm mợ cùng các em nữa. Cậu mợ ở với vợ chồng em Hạnh, trong một căn nhà riêng tại một con phố yên tĩnh, em thứ hai là Phúc thì học và dự định lập nghiệp ở Sài Gòn. Chẳng phải hỏi thì chúng tôi đã cảm nhận rõ hạnh phúc ngời lên ấm tỏa trong gia đình cậu, bù lại bao nhiêu năm xa cách nhau thương nhớ lo âu khắc khoải. Cậu và mợ đều giữ trọn tình chung thủy, và cùng với các em nữa, chịu đựng vượt qua bao gian khổ khó khăn thậm chí hi sinh cả xương máu cho ngày hôm nay đoàn tụ. Chúng tôi nhớ cậu, tìm đến, chuyện trò chia sẻ và xúc động vô cùng. Bây giờ, cậu đối với tôi đã thân thiết chẳng khác gì với MQ, cháu ruột  thực sự. Bỗng nhiên, tôi chợt buồn khó tả khi nhớ về ngày đầu chúng tôi yêu nhau, không chỉ gia đình tôi phản đối, mà chính cậu, cậu đã ngăn cản rằng, MQ không nên lấy tôi, vì gia đình tôi không thuộc thành phần cơ bản! Nhưng may là má thì bảo tùy ý MQ quyết định, nên không có gì quá căng thẳng, và chúng tôi đã vượt qua ngăn trở của cả hai gia đình để đến với nhau. Và rất nhanh chóng, chắc do trời định thôi, tôi gạt bỏ được lòng tự ái từ khi nó chớm bùng nổ, để giữ được trọn vẹn mối tình đầu với người mình yêu quí. Rồi cả cậu nữa, cậu không cố chấp, cậu đã quan tâm và thương sót mẹ con tôi từ khi bé Hoa còn non nớt, không được bố ở bên chăm sóc vì bố đi bộ đội vắng nhà. Mà thôi, đã bẩy năm rồi, hãy mỉm cười vì những gì thật tốt đẹp của ngày hôm nay đi chứ.
             Chứng kiến và hoàn toàn yên lòng mừng vui vì hạnh phúc của cậu mợ và các em, những ngày ở Nha Trang, chúng tôi chỉ thi thoảng mới thăm cậu, còn chủ yếu ở với má. Má sống một mình, thương lắm. Hàng ngày má lụi cụi nấu nồi cơm con, kho mấy con cá nhỏ bằng mấy cái củi cái lá khô luơ quơ ngoài vườn chuối. Má chỉ vui khi đi họp chi bộ Đảng thôi, vì gặp được người này người kia. Má có bán thêm tí dầu hỏa để người ta thắp đèn, đựng trong cái chai bé tí. Tôi chỉ nhớ thế, không thấy má bán gì nữa để kiếm thêm mấy đồng và cũng là để đỡ buồn. Chúng tôi ở với má có ít ngày nhưng được má chia sẻ tâm tình chuyện thầm kín buồn cười, mà trước đây ở ngoài Bắc, có lẽ vì má con gặp nhau vội vàng và luôn bận rộn nên không có dịp.thuận tiện mà kể. Má bảo lẽ ra má không lấy ba thằng MQ, vì má thích một ông khác cơ, ông ta làm nghề hỏa xa, chứ không đo đạc ngoài đường (thuộc Sở Lục lộ???) như ba nó. Nhưng vì hai nhà thân nhau, nên ông bà thằng MQ bắt má lấy ba. Khi cưới xong, đêm tân hôn má phải chạy ra ngoài bỏ đi cho bõ ghét. Sao thế hả má? (tôi chen ngang). Má cười bảo tại ba mày đen quá, xấu lắm, không trắng trẻo đẹp trai như cái ông kia. Nhưng rồi nói thế chứ má vẫn phải quay vào, sợ ông bà la về sau mới dần dần thương vì ba mày thật thà, hiền và tốt lắm. Bọn tôi lăn ra cười, riêng tôi thầm nghĩ muốn chêu má mà không dám nói, má trắng quá, ngày xưa chắc má đẹp lắm, thì lấy ba con đen và xấu là đúng rồi còn gì, qui luật bù trừ mà.
             MQ tranh thủ thời gian dẫn hai mẹ con thăm họ hàng bên ngoại, tức là họ bên má, rồi nhờ người đưa chúng tôi lên vườn ông ngoại rộng lắm. MQ hẳn phải bồi hồi xúc động hơn tôi, bởi chính tại mảnh vườn này, ông ngoại MQ đã bị địch bắn chết, và nấm mồ liệt sĩ vẫn còn kia, trong nghĩa trang yên lặng. Cũng từ mảnh đất này, ba anh em (anh Hồ Hồng 12 tuổi, anh Hồ Quảng 9 tuổi, MQ 6 tuổi) đã tự nuôi nhau, đi mót lúa ở ruộng, rồi bà con thương tình mỗi người cho từng bát cơm, manh áo, khi mà cả ba và má bị bắt vì hoạt động cách mạng tại cơ sở, đang ở trong nhà tù (MQ có anh cả lớn nhất Hồ Anh Thơ khi đó đã làm liên lạc, thoát li lên chiến khu). Cũng tại nơi này, hôm nay, chúng tôi được chú em con nhà dì tự tay đánh bắt cá dưới sông lên nướng cho ăn, rồi trảy sa cu chê, khế ngọt, ổi…. Vườn nhà ai cũng rộng, đi vào là lạc lối luôn. Chúng tôi thăm gia đình hai dì, là em ruột của má, rồi thăm các cậu dì họ trước tập kết ra Bắc, nay trở về Nha Trang hết cả, mừng vui không sao tả xiết.
             Nghỉ phép có hạn thôi. Chúng tôi phải ra Bắc, để lại má thui thủi một mình. Chúng tôi biếu má ít tiền để má bồi dưỡng thuốc thang như đã chuẩn bị, và sau đó cùng các anh bàn bạc thống nhất, đều đặn hàng quí mấy anh em gửi tiền vào má chứ không thể để má sống quá thiếu thốn bằng đồng lương mất sức lao động cực thấp (trước kia khi tập kết ra Bắc, thoạt đầu má làm cấp dưỡng ở các trường học sinh miền nam, rồi sau nghỉ mất sức). Phải mấy năm sau đó, các anh của MQ mới lần lần trở về lúc đầu anh thì ở Sài Gòn, anh thì ở Hà Tiên. Có hai anh rốt cuộc đều chuyển về Nha Trang, nhưng do hoàn cảnh riêng, chẳng ai sống cùng với má thực sự, mà chỉ tạm thời từng quãng thời gian ngắn ngủi.
             Lần trở ra này, chúng tôi vẫn đi ô tô liên vận, nhưng bệnh say của tôi đã thay đổi về chất nghĩa là tôi chỉ mệt, không nôn lần nào. Phần lớn do thuốc, nhưng một phần là tôi tự biết tư thế nằm khiến đỡ say hơn. MQ bớt vất vả hơn nhiều. Chỉ trên đường trở ra, tôi mới nhâm nhi thấy ly chè Đà Nẵng là ngọt thơm đa mùi vị, thấy bát mỳ Quảng, bát bún Huế là đặc biệt, là không thể na ná từa tựa với bát gì của miền Bắc. Chỉ có gà Quảng Ngãi thì phải khá lâu về sau tôi mới được biết, nó không xuất hiện trong thực đơn của cuộc hành trình này. Trên những con đường miền Nam, rồi qua miền Trung, trời đều nóng bức nên đôi lúc cảm thấy mát mẻ như ăn chè, uống trà đá chẳng hạn, nhưng qua đèo Hải Vân là thay đổi rồi, trời thu dịu mát se se lạnh. Chuyển sang đi tàu hỏa, ban đêm bé Hoa lại được xỏ vào cái áo len cộc tay, mà tôi dùng các mẩu len cũ nối vào nhau đan pha màu nên đầy nút  chằng chịt bên trong, lại mặc đồ từ quần ka ki hoặc quần bộ đội  cũ tôi phá ra may vớ may vẩn. Còn tôi, tôi lại thủng thẳng chui vào cái áo chui đầu vải bông mỏng màu xanh công nhân đã cũ, chiếc áo -phải, chiếc áo duy nhất trong đời MQ sắm cho tôi, mà lúc mới mang về, tôi không biết đâu là đằng trước đâu là đằng sau, khiến MQ cứ trêu tôi mãi. Còn tôi thì đùa rằng, MQ ghê gớm lắm, MQ mua cho tôi cái áo cực xấu bởi MQ muốn tôi xấu đi trong mắt mọi người, có vậy MQ sẽ yên chí không đấng mày râu nào thèm để ý đến tôi, và bất luận trong hoàn cảnh nào, tôi biết và chỉ biết có MQ mà thôi.
             Chúng tôi nghỉ thì ít, đi lại mệt nhọc thì nhiều, ngơ ngác trên đường phố Sài Gòn, ngẩn ngơ với con sông, với những vườn cây Nha Trang, rồi bận rộn vui buồn khi gặp gỡ người thân, tôi đâu có thời gian để nhớ gia đình ngoài Bắc, nhớ bố mẹ, anh chị em và nhớ con trai bé bỏng của mình đang gửi bà. Tôi không mang được đồ chơi gì về cho con, ngoài con búp bê thì Hoa dành lấy là chủ yếu và chỉ cho em chơi ké nhờ một tị.Thương con quá, mà con thì ngây thơ có biết gì đâu mà trách móc, mà dỗi dằn cơ chứ.
             Các thứ quà trong Nam chuyển ra đem chia cho mọi người trong đại gia đình tôi ngoài Bắc rất vui vẻ không có chuyện gì, trừ trường hợp cậu em. Chuyện là có mảnh vải trắng pha nilon mấy chị ở xóm dệt cho, tôi thấy hợp với nam, nên bàn với chồng, mảnh này may được hai sơ mi cộc tay, vậy để MQ may một chiếc, còn một thì đem cho Vinh - em trai tôi, nó mới ra trường chuẩn bị đi làm chắc cần diện một chút. Lâu nay anh chị cứ bấn bíu, chẳng mấy khi quan tâm đến em, chỉ đưa  bố chút đỉnh từ lương hàng tháng để góp thêm nuôi em, là yên lòng rồi. Bây giờ tôi muốn cho em vải, tất nhiên là MQ đồng ý ngay.Vậy mà vẫn không ổn.
             Chả là tình cờ nghe tin anh chị đi phép miền Nam mới ra, em tôi chạy sang hỏi thăm, thế là tôi đem ngay vải ra khoe và bảo đây là quà tự tay chị của anh MQ dệt đấy, anh chị cho em để may mà đi làm, em xem có thích không này.Cậu em đang vui vẻ phấn khởi để tôi ướm vải vào người thì me tôi bỗng rất “hồn nhiên” không kiềm chế được: “Ơ tôi tưởng vải để cho cậu MQ may chứ chị?” Chúng tôi ớ ra vì Vinh còn đang đứng đó. Tôi vội giải thích “Không không, nhà con có rồi me ạ. Mảnh vải xẻ đôi mà, để em Vinh may”. Chuyện đến tai dì tôi, mẹ sinh ra em. Dì kêu la um xùm và cho rằng cả nhà tôi không thật lòng, anh chị bảo cho, me thì bảo không, nên dỗi không cho em nhận nữa. Thật khổ thân tôi, tôi phải sang tận nhà kể từ đầu đến đuôi để dì hiểu và thông cảm, mãi sau phải nhờ bố tôi can thiệp mới xong. Về nhà tôi không dám căng thẳng với me ngại me tự ái, ai bảo vô tình hai vợ chồng bàn nhau mà không cho me biết. Mà của đáng tội, nguyên nhân là do me tôi sót ruột, sợ tôi phân chia hết không quan tâm đến MQ mà. Tôi chả muốn nghĩ gì nhiều nhưng buồn lắm, giá như đừng có vải thì đâu sinh chuyện. Bây giờ nghĩ lại mới thấy đúng là ngày ấy nghèo quá. Chỉ vì một chút sơ xuất thôi là hiểu lầm nhau ngay. Mà thật khổ, cái tấm vải ấy pha đặc nilon, may lên mặc bí và nóng điên chứ có sung sướng gì cho cam.
          Rồi cũng qua đi mọi chuyện. Chúng tôi trở về với cuộc sống thường nhật. MQ vẫn đi dạy học xa nhà. Thường hàng tuần có thể về, nhưng nếu phải dẫn sinh viên thực tập đâu đó, hay đi lao động, hay chấm thi, thì không về được. Những kì đó, MQ và tôi lại gửi thư cho nhau, tâm tình kể lể đủ thứ chuyện cứ như xa hàng tháng hàng năm không bằng. Hồi đầu, MQ viết thư còn ngắn, sau “lây” tôi, thư nào cũng tràng giang đại hải cả 4, 5 trang thật lớn.
           Một lần, như “rình” chủ nhật MQ không về, mâm cơm nhà tôi có đúng một đĩa rau lang luộc, chấm với bát nước muối, vì nước mắm hết rồi.Đen đủi làm sao, bữa ấy, anh Quy, trưởng phòng tôi đến chơi thăm, đúng lúc nhà tôi ăn cơm. Eo ơi tôi xấu hổ quá, ngượng quá, ai đời chủ nhật mà lại ăn uống thế này. Tôi chỉ muốn có cái lỗ chui lẩn xuống đất mà trốn thôi. Tôi luống cuống tiếp khách, không còn tâm trí nào. Tôi không biết anh Quy có nghĩ gì không, hay chỉ tại tôi có bệnh tự hành mình phức tạp quá. Tự nhiên tôi thầm trách sao MQ chủ nhật này không về để cho tôi chịu cái cảnh bần hàn này trước mặt khách, bởi nếu có MQ, chắc hẳn tôi phải bằng mọi cách cào cấu ở đâu ra một cái gì đó khác với đĩa rau lang luộc duy nhất này. Tôi còn thầm trách trưởng phòng sao đến chơi muộn thế, vào đúng bữa ăn, mà không phải từ sáng chẳng hạn, trách lung tung một cách hết sức vô lí.


Trích Hồi ký: NƯỚC MẮT VA NỤ CƯỜI 
của Bùi thị Kim Thư
(còn nữa)

4 nhận xét:

  1. Bạn đã cho tôi sống lại cái không khí 2 miền sau ngày giải phóng một cách CHÂN THỰC & SINH ĐỘNG .Văn KỂ ,TẢ rất có DUYÊN !

    Trả lờiXóa
  2. Mọi chuyện như vừa xảy ra hôm qua anh ạ. Đôi lúc em nghĩ như thế. Thôi thì cứ viết theo trí nhớ và những cảm xúc của mình thôi.
    MQ cảm ơn anh ạ.

    Trả lờiXóa
  3. Một thời tuy gian khổ trăm bề, nhưng chan chứa tình người.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Vâng, nhiều khi MQ thích sống thời ngày xưa hơn anh ạ.
      Cảm ơn anh đọc và chia sẻ.

      Xóa