Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2015

Dịch thơ Nguyễn Khuyến bài 85



Bài 85

Kỷ Sửu cửu nguyệt liên dạ phong vũ...
己丑九月連夜
風雨獨坐無聊
引满不止又聞
同邑一老徂落
人感作云
Kỷ Sửu cửu nguyệt liên dạ
Phong vũ độc tọa vô vô liêu
Dẫn mãn bất chỉ hựu văn
Đồng ấp nhất lão tồ lạc
Nhân cảm tác vân
江山風雨近重陽
Giang sơn phong vũ cận trùng dương
貧病歸來酒後狂
Bần bệnh quy lai tửu hậu cuồng
聞道西鄰亡一老
Văn đạo tây lân vong nhất lão
不知此去是何鄉
Bất như thử khứ thị hà hương
死生尻脊真閒事
Tử sinh khảo tích chân nhàn sự
號泣笙箫枉断腸
Hào khấp sinh tiêu uổng đoạn trường
醉矣添杯又添醉
Túy hĩ thiêm bôi hựu thiêm túy
憑窗仰面看蒼蒼
Bằng song ngưỡng diện khán thương thương
Tháng 9 năm Kỷ Sửu (1889) mưa gió mấy đêm liền
Một mình ngồi buồn, dốc chén uống mãi, lại nghe tin
một ông già trong làng vừa mất, cảm xúc làm thơ.

Núi sông trong cảnh mưa gió gần tiết Trùng dương
Nghèo ốm cáo về uống rượu vào đâm ra cuồng
Nghe nói xóm tây có một ông già vừa mất
Chẳng biết chuyến này lão đi đến chốn nào ?
Sống làm xương sống, chết làm xương cùng, 
                                                     đó là việc rất thường (1)
Keu khóc hoặc kèn sáo luống những đau lòng mà thôi
Say rồi uống thêm chén nữa lại say thêm
Tựa cửa ngòi ngửa mặt ngắm sắc trời xanh ngắt.
  1. Trang Tử chép trong chuyện Tử Tự, Tử Dư, Tử Lê, Tử Lai, bốn người nói với nhau rằng: “Ai biết lấy cái không làm đầu, lấy cái sống làm xương sống, lấy cái chết làm xương cùng; ai biết được lẽ sống chết, còn mất chỉ là một thể, chúng ta sẽ cùng người ấy làm bạn”.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ:

Gió mưa gần tiết trùng dương
Bệnh, nghèo rượu lắm hóa cuồng bấy nay
Qua đời ông lão xóm tây
Chuyến này hồn cụ liệu bay xứ nào ?
Tử sinh chuyện ấy thường sao
Sáo kèn khóc lóc kêu gào thêm thương
Chén rồi thêm chén say hơn
Dựa song ngửa mặt ngó nhìn cao xanh .
3/12/2014
Đỗ Đình Tuân

THUYỀN ĐÁ BÊN HỒ CÔN MINH

Một chiếc thuyền không phải là thuyền vì làm bằng đá
Một khối đá không còn là đá vì phải làm thuyền
Cái nghịch lý ở đời tôi sờ thấy
Sóng trên hồ ràn rạt vỗ niềm tin!?..

Ôi ý tưởng nửa nghìn năm trước
"vua là thuyền và nước là dân"
Không muốn thuyền bị nước kia đánh đắm
Nên phải làm bằng đá vạn cân?..

Vua chúa hỡi chắc thời nào cũng vậy
Cứ oái oăm muốn đá nổi nước chìm?..
Công sức nhân dân việc chi làm chả được
Không ít người đã hóa đá trái tim!

Phạm Thanh Quang

(Di Hòa Viên Bắc Kinh: 16.10.1998 )
RÚT TRONG TẬP THƠ "KHOẢNG LẶNG KHÔNG GIAN"
NXB HỘI NHÀ VĂN NĂM 2000. PTQ

MỪNG ĐẢNG

(chào mừng đảng cộng sản Việt Nam 85 tuổi)
Mừng Đảng xuân này tuổi tám nhăm
Mùa hoa thắm nở vạn tươi hồng
Vì dân một dạ lòng son sắt
Trại khiếm lao tù với xích gông

Ngời tỏa muôn trùng khắp núi sông
Hào quang lấp lánh ánh cờ hồng
Sài lang, đế quốc cùng phong kiến
Xóa bỏ làm lên nước cộng hòa

Độc lập tự do cùng hạnh phúc
Việt Nam hòa nhịp với toàn cầu
Max- Lê dìu dắt toàn nhân loại
Thế giới mừng vui với đại đồng

Lũ giặc lăm le chiếm biển đông
Hiếu hòa lời lẽ vẫn can ngăn
Hòa bình dộc lập chung biên giới
Sáu chữ ghi lòng thật vững tâm

Hương cảng ngày nao thành lập Đảng
Mùa xuân đỏ thắm lá cờ sao
Niềm tin chói sáng năm châu lục
Vĩnh viễn con người hết khổ đau

Liềm búa ngời ngời mãi tỏa soi
Công nông đứng dậy lập chiến công
Xây nền hạnh phúc lâu dài mãi
Bỏ hết hận thù dựng núi sông.
                                            VN

Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

Dịch thơ Nguyễn Khuyến bài 84





Bài 84

Kỷ Sửu Trùng dương 2(1889)
己丑重陽 ()
Kỷ Sửu trùng dương (nhị)
重陽何處不躋攀
Trùng dương hà xứ bất tê phan
隐几偏容一老閒
ẩn kỷ thiên dung nhất lão nhàn
花亦愛残開未得
Hoa diệc ái tàn khai vị đắc
酒因嗜飲惜成慳
Tửu nhân thị ẩm tích thành khan
昨宵甚雨水窺巷
Tạc tiêu thậm vũ thủy khuy hạng
此夜無雲月上山
Thử dạ vô vân nguyệt thượng san
病眼矇矓乘醉望
Bệnh nhãn mông lung thừa túy vọng
寒烟疎影有無間
Hàn yên sơ ảnh hữu vô gian
Tiết trùng dương năm Kỷ Sửu

Tiết Trùng dương không nơi nào người ta không trèo núi
Riêng một mình lão ngồi tựa ghế thảnh thơi
Hoa cũng tiếc phải tàn nên chưa hoa nào chịu nở
Rượu vì nghiện ngập phải dè xẻn mà thành ra keo
Đêm trước mưa nhiều nước ngập nghé ngoài ngõ
Tối nay mây quang trăng nhô lên đầu núi
Mắt đau trong lúc say trong chỉ lờ mờ
Khói nhạt bóng mờ trông như có như không.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ:

Trùng dương chốn chốn thảy chơi non
Riêng một mình ta tựa ghế nhàn
Rượu nghiện hám nhiều thành bủn xỉn
Hoa chưa chịu nở bởi lo tàn
Mưa nhiều đêm trước nước lên ngõ
Mây tạnh đêm nay nguyệt xuống ngàn
Đau mắt rượu say nhìn chẳng rõ
Nhập nhòa sương khói tụ hay tan?
3/12/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

Truyền thuyết và mẩu chuyện xung quanh Đền Cao (8)





                                     Lễ hội đền cao


          Hàng năm, cứ vào các ngày 22, 23 và 24 tháng Giêng âm lịch, dân địa phương lại tổ chức lễ hội Đền Cao.
          Ngày 22, tất cả kiệu rước, nghi trang, cờ quạt, tán lọng...đều được sắp sửa ở Đến Cả (thờ hai bà Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu), chuẩn bị chu đáo cho ngày 23 sẽ rước về Đền Cao (thờ ông anh cả Vương Đức Minh) và làm lễ dâng hương.
          Ngày 23, lễ hội bắt đầu bằng đám rước: dội múa rồng, múa lân đi trước. Đội gồm 20 thanh niên khỏe mạnh, mặc áo lậu đỏ, chít khăn đỏ, múa nhảy theo nhịp trống. Con rồng được làm bằng thứ vải có màu sắc rực rỡ, uốn lượn uyển chuyển vờn nhau với mấy người đeo mặt nạ cầm côn.
          Sau đoàn múa rồng là đoàn rước kiệu. Tất cả gồm 6 kiệu:
          -Kiệu thứ nhất rước các sắc phong của năm anh em họ Vương.
          -Kiệu thứ hai rước ngai và bài vị của ông thứ nhất Vương Đức Minh.
          -Kiệu thứ ba rước ngai và bài vị ông thư hai Vương Đức Xuân.
          -Kiệu thứ tư rước ngai và bài vị ông thư ba Vương Đức Hồng.
          -Kiệu thứ năm rước ngai và bài vị của hai bà Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu.
          -Kiệu thứ sáu rước bài vị của Thành Hoàng làng.
          Đoàn rước kiệu có 58 người khiêng kiệu, 30 người đánh trống, gõ chiêng, che tán lọng. Họ đều được chọn từ những trai tráng khỏe mạnh và có đức độ của dân làng. Hô vận áo lậu mầu xanh, đỏ, tím, vàng, chít khăn đỏ và đi hài cỏ.
          Riêng kiệu của hai bà lại được để cho các cơ cánh người thập phương khiêng. Họ cũng ăn vận hóa trang giông như các quan văn tướng võ thời xưa. Đi bên cạnh các kiệu là các già làng vận lễ phục. Mỗi kiệu do một “ông Đám” đi trước chỉ huy.
          Chiêng trống tùng... bili...bộ bát âm đi bài “Lưu Thủy” làm không khí đám rước thêm rộn ràng trang nghiêm
          Đoàn rước kiệu xuất phát từ Đền Cả (nơi thờ hai bà Vương Thị Liễu và Vương Thị Đào), qua Đền Bến Cả (nơi thờ ông Vương Đức Minh), Đền Bến Tràng (nơi thờ ông Vương Đức Xuân), lên đến Đền Cao (nơi thờ ông Vương Đức Xuân) thì dừng lại.
          Tại đây, Ban tổ chức lễ hội tiến hành Lễ Dâng Hương. Ông trưởng Ban sẽ đọc tiểu sử và công lao của năm anh em họ Vương. Rồi các vị chức sắc trong hạt, trong làng, đại diện các cơ, cánh...lần lượt thắp hương tưởng niệm, nguyện cầu.
          Sau đó các bài vị, bát hương ở các kiệu được lần lượt rước vào đặt an vị trong Đền Cao để cho dân làng và khách thập phương đến làm lễ trong suốt những ngày hội.
          Ngày 24, các kiệu của ông Vương Đức Xuân, ông Vương Đức Hồng, hai bà Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu Và kiệu của Thành Hoàng làng được rước trả lại nơi thờ cũ.
          Do Đền Cao có tiếng là linh thiêng nên khách thập phương đi trẩy hội và lễ đền rất đông làm không khí những ngày này náo nhiệt hẳn lên. Những năm gần đây Lễ hội Đền Cao đã trở thành một lễ hội lớn ở trong vùng.
 29/01/2015
Đỗ Đình Tuân

Dịch thơ Nguyễn Khuyến bài 83




Bài 83

Kỷ Sửu trùng dương 1
己丑重陽 ()
Kỷ Sửu trùng dương ( nhất)
風雨萧萧九月天
Phong vũ tiêu tiêu cửu nguyệt thiên
山河举目最堪憐
Sơn hà cử mục tối kham liên
小池綠漲乃如此
Tiểu trì lục trướng nãi như thử
去歲黄花殊不然
Khứ tuế hoàng hoa thù bất nhiên
柳葉垂青光透日
Liễu diệp thùy thanh quang thấu nhật
竹籬積翠暮浮烟
Trúc ly tích thúy mạc phù yên
近來不作豋高兴
Cận lai bất tác đăng cao hứng
醉卧寒窗抱甕眠
Túy ngọa hàn song bão úng miên
Tiết Trùng dương năm Kỷ Sửu (1889)

Trời tháng chín tiếng gió mưa dào dạt
Trông vời non sông nghĩ rất đáng thương
Trong ao nhỏ nước xanh dâng lên như vậy
Cảnh hoa vàng năm ngoái đã khác hẳn rồi
Chồi liễu rú lá xanh có ánh mặt trời xuyên qua
Giậu tre um mầu biếc làn khói chiều bao phủ
Gần đây không có hào hứng lên chơi núi (1)
Chỉ say nằm bên cửa sổ vắng ôm vò rượu mà ngủ (2)
  1. Lên núi: tục cổ người Trung Quốc cứ đến tết Trùng dương (9 tháng 9 âm lịch) thì đi chơi núi.
  2. Ôm vò rượu mà ngủ: Tất Trác đời Tấn làm Lại bộ lang, tính ham rượu, thấy hàng xóm nấu rượu, đêm đến sang uống trộm, say quá, nắm ngay bên vò rượu mà ngủ. Nhà bếp bắt được trói lại. Đến sáng chủ nhân mới biết, cởi trói cho Trác và lại cùng nhau ngồi uống ngay bên vò rượu.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ:

Tháng chín dạt dào mưa gió bay
Trông vời non nước đáng thương thay
Nước xanh ao nhỏ dâng lên vậy
Năm ngoái hoa vàng đổi khác vay
Chồi liễu lá xanh trời chiếu nắng
Giậu tre mầu biếc khói chiều vây
Gần đây không hứng trèo chơi núi
Chỉ thích ôm vò rượu ngủ say.
3/12/2014
Đỗ Đình Tuân

AI NGỜ !...



Thơ tình có lắm chữ “Em”
Cho nên vợ đã nổi ghen lạ lùng :
Gió mưa, sấm chớp đùng đùng
Tuyên bố “ bỏ chồng “ – Thật tội nhà thơ .

Nhà thơ bỗng hóa bơ vơ (tự do?)
Thơ tình
Thơ tiếc
Ai ngờ...
Hay hơn !

Phố Quê 1/2015
THANH DẠ

DỞ DANG

Dọn dẹp mãi mà không hết

Trăm mối tơ lòng ngổn ngang

Giống như người xây trong mộng

Hẳn là còn mãi dở dang.


                            Nguyễn Xuân Hiểu

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

Dịch thơ Nguyễn Khuyến bài 82







Bài 82
Ức gia nhi
憶家兒
Ức gia nhi
東窗雨後覺微寒
Đông song vũ hậu giác vi hàn
縱飲狂歌興未闌
Túng ẩm cuồng ca hững vị lan
法密不聞蛙鼓禁
Pháp mật bất văn oa cổ cấm
賦煩猶幸醉鄉寬
Phú phiền do hạnhtúy hương khoan
古今風會知胡底
Cổ kim phong hội tri hồ để
王伯功名若等閒
Vương bá công danh nhược đẳng nhàn
屈指吾兒上京路
Khuất chỉ ngô nhi thượng kinh lộ
今朝當是過橫山
Kim triêu đương sự quá hoành san
Nhớ con
Mưa ngớt ngồi cửa sổ phía đồng thấy lành lạnh
Uống bừa ngâm tràn hứng thú vẫn chưa cạn
Pháp luật tuy nghiêm mật vẫn chưa nghe nói cấm trống ếch (1)
Thuế tuy nhiều thứ may còn khoan hoãn cho làng say
Xưa nay phong hội thay đổi mãi biết đến đâu là cùng ?
Công danh dù làm đến bậc vương bá cũng chỉ là việc thường
Bẫm đốt tính đường con ta vào kinh
Sáng nay có lẽ đã qua đèo ngang rồi (2)
1.Trống ếch: tiếng ếch kêu không phải là tiếng trống “cà rùng” sau này.
2. Đèo Ngang : tức Hoành Sơn, giáp giới hai tỉnh Hà Tĩnh với Quảng Bình.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ:
Cửa đông mưa ngớt lạnh se người
Ngâm phóng uống tràn hứng chửa vơi
Luật pháp vẫn chưa cấm trống ếch
Thuế tô còn hoãn thú say lười
Xưa nay phong hội luôn thay đổi
Vương bá công danh chỉ có thời
Bấm đốt tính đường con trảy Huế
Đèo ngang chắc đến sớm nay rồi .
3/12/2014
Đỗ Đình Tuân