Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

TÌNH NGƯỜI ( Tiếp theo và hết)

Vậy là sau lần ấy, tôi không dám rủ anh đi xem phim xem hát xem kịch gì nữa. Tôi chỉ còn tìm đến nhà riêng thăm anh, thăm bố mẹ anh để anh vui thôi, hoặc chúng tôi dạo quanh tìm ghế đá bên hồ ngồi mà nói chuyện tầm phào. Nhưng để làm được chuyện đó đối với tôi cũng là cả một nan trình. Cái hồi tôi còn hay đọc sách ở thư viện Hà Nội đến 10 giờ đêm mới về thì tôi cứ việc bỏ thư viện mà đi dạo với anh, chứ về sau này, tôi bận chuẩn bị cho đám cưới của mình, thì tôi thường phải về nhà sớm. Đã về mà còn đi thì chỉ có cách lẻn như người vụng trộm. Có lúc tôi lấy xe đạp đi, tôi nói với me tôi là tôi phải đi mượn sách, tôi dặn me nếu Minh Quang người yêu tôi ghé qua thì bảo chờ tôi về sớm, đừng có đi đâu. Có hôm, ngại nói với me, tôi tự tiện đi bộ ra khỏi nhà cứ như ra chợ quanh đâu đấy, thực ra tôi chạy thục mạng leo lên tàu điện để đến bờ hồ rồi lại chạy bộ vào nhà thăm anh Thư mấy phút rồi lại chạy về ngay. Tôi không hiểu rõ, vậy là thế nào, tôi chỉ biết tôi tự gán cho mình trách nhiệm, anh Thư phải luôn gặp tôi, không chỉ trên cơ quan, mà cả khi về nhà nữa. Tôi cần nhìn thấy gương mặt rạng rỡ của anh cả khi ở nhà cũng như khi anh mải mê đọc đọc viết viết trên bàn làm việc. Tôi thường hay dúi vào tay anh khi thì một quả mận thật to chín mọng, tôi đã từng lau nó tới hàng giờ để nó có thể bóng lộn lên; khi thì mấy chiếc kẹo tây thật ngon ai đó cho tôi. Anh hơn tôi cả tới hơn chục tuổi mà tôi cứ coi anh như trẻ con bởi tôi chính là con nít thực sự…
              Có một lần, trong khi trò chuyện, đột nhiên anh Thư hỏi tôi hình như tôi có người yêu rồi. Tôi cũng thật thà kể ngay, tôi có Minh Quang. Anh lại hỏi dự kiến tương lai thế nào, tôi hơi miễn cưỡng trả lời anh là chúng tôi sắp làm đám cưới. Miễn cưỡng là bởi tự nhiên tôi không thích “khoe” hạnh phúc của mình với anh – người bạn lớn mà tôi biết chắc anh đang rất cô đơn, nhưng tính tôi thật thà không mấy khi nói dối vả lại trong trường hợp này nói dối cũng chẳng để làm gì. 

             Thế rồi sau một thoáng như phải tự trấn tĩnh lại, anh Thư bảo: “Kim Thư này, anh không hiểu được, không thể hiểu được, vì sao em là một cô gái mới lớn, học hành giỏi giang, có người yêu sớm, … vậy mà lúc nào trông em cũng buồn. Gặp anh, em nói cười hớn hở, nhưng đôi khi anh cảm thấy đó là cái vui giả tạo Thư ạ”
           Nghe anh nói vậy, tôi nửa thật nửa đùa: “Thôi mà anh. Không có gì đâu ạ. Em thân với anh, em quí anh, chân thành chứ không bao giờ dám thương hại anh cả. Anh hãy vui với niềm vui của em đi, anh nghĩ anh lo em giả tạo để làm gì. Mà này em nói cho anh biết đây, em mà đóng kịch thì có trời cứu, không ai nhận ra được đâu, kể cả anh vốn lúc nào cũng kiêu căng nghĩ mình thông minh, tự hào là dân Toán chính hiệu, với cái đám lí thuyết Toán trừu tượng của anh, thì cũng bị em lừa hết ha ha ha!!!” Anh Thư thấy tôi đùa vui vậy, cũng dí dỏm theo: “Cái cô này gớm thật…Đọc những lá thư của cô mỗi lần cô đi công tác, tôi chả bị buồn nẫu ruột ra là gì, nhưng thôi tôi không căn vặn cô nữa…” Thấy vậy, tôi bật ứng khẩu mấy câu vần vè: “He he lại  đổi giọng CÔ/Khiến cho em thấy lo lo thế nào/Thôi đành xa chốn ồn ào/Ai về nhà nấy tào lao một mình/Hẹn anh lúc khác rập rình/Anh vui nhiều nhé giữ tình mến thương/Đường về “thơ cóc” còn vương/Chúc anh chớ có ẩm ương nữa mà” rồi chạy thục mạng đi giơ tay vẫy vẫy tạm biệt.
            Rồi những buổi trưa nghỉ tại cơ quan, anh em tôi cũng thường tâm sự chia sẻ với nhau hầu như không bao giờ hết chuyện. Có lần tôi hỏi anh bâng quơ mà rất nghiêm trang  : “Em nghĩ, anh Thư ạ, niềm vui được làm việc và làm việc được là niềm hạnh phúc lớn lao nhất quyết định mọi hạnh phúc khác trên đời này. Anh có thấy thế không?” Anh nhìn tôi thật lâu như dò xét điều gì rồi gật đầu: “Em nói đúng. Nhưng hình như, khi người ta có “mọi hạnh phúc khác” thì người ta mới nghĩ vậy!”
           Tôi như đứa trẻ đang tập diễn thuyết trước người thày của mình, mà không chút e dè lo lắng: “Hạnh phúc chỉ có thể có khi người ta được sống trong tình thương yêu của những người xung quanh. Tất nhiên có những tình cảm xuất phát từ máu mủ tự nhiên, nhưng rất đáng quí là tình thương yêu thật sự có được do sức lôi cuốn của trái tim mình”. Anh Thư trầm ngâm: “Nhưng không phải tất cả đều đáng yêu thương vì yêu tất cả tức là không yêu ai cả. Và dẫu với những người ta mến yêu, cũng phải thấy mỗi người đều có mặt xấu nhất định. Quên điều đó, lí tưởng hóa cuộc đời thì chỉ có thể đi đến tan vỡ lòng tin vào nó và cuối cùng chỉ thấy một màu bi quan xám xịt”.
            Tôi nhìn đồng hồ, sắp tới giờ làm việc rồi, tôi cười: “Hay thật. Tự nhiên hôm nay hai anh em mình lại lý sự ghê thế anh Thư nhỉ” Anh rất thật thà: “Anh bảo thật này, anh thích nói chuyện với em, Kim Thư ạ. Không rõ vì sao…” Tôi hơi ngượng ngập rồi bình tĩnh lại ngay: “Nói chuyện với anh em lại nhớ đến cái câu “tạch tạch sè” ngày xưa “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn…”. Mà thôi, em đi về đây. Chiều nay nhà em có việc em xin nghỉ phép một buổi. Anh Thư ở lại làm việc ngoan và chăm chỉ nhé hé hé hé…”
            Cứ thế, cứ thế, chúng tôi luôn gặp nhau nhiều hơn cả Minh Quang và tôi gặp nhau. Chẳng những thế, bao lá thư anh gửi tôi và ngược lại cứ dồn dập đến, khi thì qua đường bưu điện, khi thì qua hộp thư cơ quan, khi thì đưa trực tiếp. Anh tự day dứt mình : “Một ngày gần đây, hạnh phúc sẽ đến với em, thì không biết lúc đó anh có còn giữ trọn vẹn tình cảm của anh đối với em như hiện nay không? Thú thực với em, anh không dám nghĩ nhiều tới ngày mai, và không tin gì ở nó”. Đọc dòng thư mà tôi bật khóc một mình: “Anh đừng nghĩ thế. Anh phải giữ sức khỏe. Anh đang làm được bao nhiêu việc có ý nghĩa. Hãy cứ hình dung và tin đi: em mãi là đứa em gái bé nhỏ của anh, luôn nghe anh tâm tình về những vui buồn của cuộc đời này. Sẽ không có gì thay đổi trong quan hệ của anh em mình anh Thư ạ…”
           Tôi gắng nén lòng nhưng thực sự có những lúc tôi cảm thấy không thể chịu đựng được nữa, người tôi cứ run lên khi vẳng bên tai tôi lời anh gọi thiết tha: “Em ơi! dầu cuộc sống bên ngoài có tươi đẹp bao nhiêu, anh vẫn thấy nó chẳng hứa hẹn cho anh một điều gì sáng sủa hơn. Hoặc là anh phải cứng rắn tàn nhẫn, hoặc là cứ phải đau khổ không cùng. Hình như hôm nay là lần đầu tiên anh dám nói với em điều này. Và chắc hẳn em chưa hiểu và cũng không thể ngờ tới được, đó là ảnh hưởng của Thư đã đần dần thay đổi cả nếp sống của anh. Từ chỗ sống câm lặng, anh đã cảm thấy NÓI là yêu cầu bức thiết của cuộc sống. Mọi lúc vui, buồn, băn khoăn, hay hào hứng anh đều thấy cần phải nói với em, chỉ có điều hoặc nói ra thực hoặc chỉ nói ra trong ý nghĩ  của riêng mình mà thôi. Cũng có khi, anh lại tự bảo mình, chả lẽ anh lại cầu mong cho em … bất hạnh để có thể thương yêu em được nhiều hơn… Hãy tha lỗi cho anh vì những điều rồ dại ấy …”
           Tôi xúc động lắm: “Dạ, em cảm ơn anh. Em vẫn đang tưởng tượng nghe anh nói đây…và cũng chỉ hôm nay, em mới mạnh dạn thổ lộ ý nghĩ thầm kín của mình rằng, dù vật đổi sao dời, mãi mãi em không bao giờ quên được anh, một người bạn lớn bị tật nguyền về thể xác nhưng trí tuệ tâm hồn thì thật tuyệt vời và nghị lực phi thường hiếm có. Mong anh hiểu đúng và đừng giận em”.
           Mỗi lần gặp tôi ở cơ quan hoặc tôi đến nhà anh, hoặc chúng tôi đi dạo, tôi đều nhận ra ở anh một sự đổi khác, anh tự tin hơn, yêu đời hơn. Anh lắng nghe tôi hát những bài ca về Hà Nội thường không thuộc trọn vẹn tùy theo ngẫu hứng một cách say sưa và hình như anh rất cảm động. Nhưng  anh luôn luôn phải chịu đựng cái sự ra về vội vã của tôi, còn tôi thì luôn cảm thấy có lỗi với anh. Anh chẳng biết làm thế nào để giữ tôi lại, đành dúi vào tay tôi mảnh giấy chữ viết li ti trên tờ giấy po luya đã ngả màu vàng ố, mà phải khi về nhà, tôi mới chạy vào góc nhà tắm để đọc ngấu nghiến trong một nỗi đau đến như tê dại:”Trời ơi! cái triết lí muôn sự phục tùng một thứ logic khắt khe tiền định, con người cứ phải cúi đầu phục tùng, không nên oán trách, cứ kiên trì nhẫn nại chung sống hòa bình với nó, cái triết lí lạc quan ấy đã từng giúp anh che dấu tâm tư buồn thảm trước con mắt mọi người, cái triết lí ấy giờ đây hoàn toàn bất lực. Chỉ còn lại một nỗi buồn tê tái rã rời…Kim Thư ơi, sao em không ở lại, nói gì thêm nữa với anh, sao em lại cứ phải về???”
”Có lẽ giờ này em đang lủi thủi ở một bến xe nào hay đang lao đao say lử trên ô tô…Anh buồn vô hạn Kim Thư ạ. Anh thương cho em, thương cho anh, những con người yếu đuối về tình cảm, như những chiếc lá đơn độc run bần bật trước mỗi cơn gió nhẹ. Giờ đây, một mình, anh không còn giữ nổi vẻ bình thản diễu cợt thường ngày nữa, em có biết không. Kim Thư vô cùng mến thương! Chúng ta đều muốn giữ đến trọn đời nguyên vẹn tình bạn trong sáng hiện nay, nhưng thực tế phũ phàng trước sau rồi cũng cướp nó đi. Nỗi lo sợ trước sự mất mát đáng sợ ấy gây ra ở anh niềm đau khổ ngay từ bây giờ. Và anh cũng sợ rằng, tác hại của nó còn to lớn hơn nhiều. Chắc gì anh còn đứng vững được trước sự trống rỗng đang đến gần?”
”Anh không nói rằng em chưa hiểu anh. Nhưng rõ ràng rằng ngày mai của anh khác xa ngày mai của em, và do đó em không thể nghĩ như anh nghĩ. Em thực ngây thơ khi cho rằng em có thể giữ nguyên tình bạn đối với anh khi em bước vào cuộc sống hạnh phúc của mình. Em quên rằng anh khác xa Hiền bạn gái của em hay một người bạn nào khác. Em vẫn biết rồi đấy, thường thường một con người khao khát cái gì đó thì không muốn chứng kiến người khác được hưởng điều mà mình không có. Vậy thì làm sao anh có thể nhận tình thương của em mà không có ý nghĩ dẫu chưa rõ ràng rằng, đó chỉ là lòng thương hại thừa thãi? Em hiểu anh chứ em Thư, dù rằng anh mến thương em vô cùng”…
            Tôi không đủ thời gian và sự bình tĩnh để đọc kĩ, tôi chỉ đọc lướt thật nhanh rồi  vội vàng đốt đi. Tôi sợ bằng cách nào đó Minh Quang chồng chưa cưới của tôi bắt gặp. Cũng chẳng sao nhưng tôi chắc Minh Quang sẽ không vui. Vả lại, chính tôi, tôi cũng cảm thấy sợ … những lá thư của anh, ngại những lời nồng nàn da diết, sợ những triết lý sâu xa của anh mà nhiều khi tôi không hiểu được hết. Anh đối với tôi rất đường hoàng, đứng đắn, chưa bao giờ một lần nắm lấy bàn tay tôi. Tôi cũng vậy, rất tôn trọng anh, không bao giờ xàm sỡ chỉ ngoại trừ cái lần đi xem phim tôi kéo tay anh vào rạp mà sau đó tôi cứ thấy mình có cái gì … không phải. Vậy mà chẳng hiểu sao có lần đi công tác xa nhà tới mấy tuần, khi nhớ về Hà Nội, tôi chẳng nhớ Minh Quang, tôi chỉ nhớ anh Thư và viết cho anh thôi:”Anh Thư quí mến! Giờ này anh đã nghỉ chưa hay vẫn ngồi trong thư viện? Em đã dạy xong. Em dự liên hoan chia tay với lớp và bây giờ ra biển viết thư cho anh đây. Chỉ ngày mai thôi em sẽ về nhà, đến cơ quan là gặp lại anh rồi, gặp người bạn lớn rất quí mến em chỉ tội hay chọc tức em thôi. Anh nhớ giữ gìn sức khỏe nhé”.
            Thế rồi, đêm đến, tôi  đã nằm mơ, tôi lấy anh Hoàng Thư mà không phải làm đám cưới với Minh Quang bạn mình. Thật là kì lạ. Minh Quang mà biết chắc sẽ giận tôi  lắm đấy. Khổ thân tôi, tôi chỉ thương anh Thư thôi mà, thương đến thắt lòng. Tôi thầm mong sao Minh Quang hiểu tôi và đừng ghen tức tội nghiệp. Cho đến tận bây giờ ngồi viết những dòng chữ này, đôi lúc tôi cứ tự hỏi mình : chẳng lẽ trong con người ta, có những phút tình thương người còn mãnh liệt hơn cả tình yêu sao?  
           Rồi cái gì đến vẫn phải đến. Minh Quang và tôi phải làm bao nhiêu việc để chuẩn bị cho đám cưới dẫu rằng nó nghèo nàn và đơn giản vô cùng. Chúng tôi đi chọn mua thiếp cưới in sẵn với cỡ bé nhất đến mức có thể để đỡ tốn tiền. Chúng tôi phải tự viết bằng tay điền tên khách định mời. Khi viết đến bạn bè ở cơ quan, lướt tới tên anh -  Hoàng Thư, tôi hơi sững lại, mặt đần ra, nhưng rồi Minh Quang tình cờ nhìn tôi, tôi vội vàng cúi xuống viết tiếp thật nhanh, tôi chỉ sửa bằng tay hai từ “chúng tôi” thành “chúng em” mặc dù sửa thế trông rất cẩu thả. Tôi chỉ nghĩ giản đơn là chuyện chúng tôi sẽ lấy nhau tôi đã kể với anh lâu nay rồi, nên bây giờ mời dự cưới thì cứ mời thôi. Nhưng tới khi đưa thiếp thật, đến cơ quan, đi thẳng phòng làm việc của anh Thư tay cầm  thiếp cưới nhỏ, tôi mới thấy mình vô duyên và lúng túng quá: “Em chào anh ạ”. Anh Thư ngẩng nhìn vồn vã: “Thư đấy à, vào đây. Em đi đâu có việc gì mà tất tả thế?” Tôi đặt vội thiếp lên bàn nói cụt lủn: “Em gửi anh…Em xin phép về ạ”. Tôi lật đật quay ra và biết chắc rằng chỉ trong giây lát, anh sẽ ngơ ngác nhìn theo bóng tôi mà như chết lặng.
             Mấy ngày sau, tôi nhận được tấm thiếp trả lại người gửi là tôi qua đường bưu điện, một tấm thiếp mời nhỏ xíu đơn độc trong một cái phong bì lớn, tịnh không kèm một ghi chú nào. Và sau đấy vài ngày nữa, mới lại có lá thư tiếp theo với những dòng chữ run rẩy: “Thế là hết, tôi đã mất em thật rồi. Nếu có em giờ này, ở đây, chắc tôi sẽ không dấu nổi nước mắt, và chẳng thể nào câm lặng trước em đâu Kim Thư! Tôi sẽ phải trở lại bình thản bên mấy cái cấu trúc đại số hay là rã rời tiêu tan tất cả vì tan vỡ và trống rỗng? Tôi lại trở về với con số không sáng vác ô đi tối vác về , không còn đủ sức để say mê và ước vọng một cái gì ư??? Nhưng không sao, em không cần phải thương hại tôi, tôi đủ sức chịu đựng, mà sức chịu đựng đó chính là do em mang lại cho tôi một cách vô tình trong thời gian qua. Em có hiểu hay không thì cũng vậy thôi. Chúc em hạnh phúc”.
           Thế đấy, anh đã trở thành "TÔI" xa lạ trong ngôn từ giao tiếp với đứa con gái bé bỏng vừa tinh tế vừa vụng về mà bấy lâu nay anh trao cho nó tiếng "ANH" trìu mến. Từ đó, chúng tôi gặp nhau trên đường hay trong cơ quan, không ai nói gì với nhau cả, cũng không chào hỏi coi như người không quen. Tôi không hẳn giận anh, nhưng thấy anh lạnh lùng, tôi ngại. Rồi cuộc sống mới cuốn tôi vào những cơn lốc. Chúng cuốn đi hết những trăn trở trong tình cảm mến thương anh từ lâu nay, mặc dầu tự trong sâu thẳm tôi vẫn quí trọng anh lắm. Tôi bận mải với tình yêu của tôi, với những đứa con ra đời. Những năm tháng chiến tranh sơ tán vất vả có lúc cái chết kề bên cũng như khi lặn lội trên bao nẻo đường công tác trong hòa bình, vật lộn với cái khó khăn thiếu thốn nghèo nàn đến cùng cực không bao giờ khóc, mà chỉ cười với hạnh phúc đầm ấm mãn nguyện bên chồng con, tôi hầu như đã quên anh Hoàng Thư trong tâm tưởng. Thì ra ngày xưa anh bảo tôi trao cho anh "tình thương hại thừa thãi" lại là đúng hay sao? mặc dù tôi không cố ý. Tôi không biết, không nghĩ lại, cũng không dằn vặt gì cả. Sau này, khi về già, đã sống gần hết đời người rồi, tôi mới lờ mờ hiểu ra rằng cái “duyên” của chúng tôi chỉ đến thế. Nhưng quả là hợp rồi tan, tan xong lại hợp là câu chuyện sắp đặt của “thượng đế”. 12 năm sau khi gửi trả lại cái thiếp cưới bé nhỏ, anh Thư gửi cho tôi một lá thư nói lời xin lỗi. Anh xin lỗi vì ngày ấy, anh đã hành động như một đứa trẻ dỗi dằn. Anh bảo rằng thời gian cứ lặng lẽ trôi, dẫu tôi có quên anh, hình ảnh của tôi vẫn luôn ở trong anh. Anh vẫn giữ nguyên những bức thư tôi tâm sự an ủi động viên anh ngày nào, chứ không như tôi đốt thư anh dần theo năm tháng. Tôi phải đốt ngay từng bức thư sau mỗi lần đọc vội vàng để bảo vệ tình yêu với người chồng sắp cưới. Thì làm sao khác được, tôi và Minh Quang yêu nhau cũng là duyên trời định đoạt. Tôi chẳng yêu ai ngoài Minh Quang. Tôi chưa bao giờ suy nghĩ so sánh rằng Minh Quang thể hiện tình cảm sự quan tâm đối với tôi khác gì tôi nhận được ở anh Hoàng Thư để mà vui buồn vẩn vơ. Tôi thường nghĩ, dường như Minh Quang sinh ra là để có tôi rồi, Minh Quang có đầy đủ tình cảm vợ con và người thân trong đại gia đình của anh. Minh Quang vô tư sống, học tập, giảng dạy, …với tất cả nhiệt huyết của một người thanh niên trong thời đại mới, một người thầy giáo khoác quân phục sĩ quan, Minh Quang có tâm hồn lành mạnh lạc quan thậm chí hơn cả những gì có thật trong đời. Vậy thì việc tôi thương xót người bạn lớn tuổi tài giỏi mà bị tật nguyền, phải chịu đựng thiệt thòi đủ thứ cũng là chuyện dễ hiểu, tình cảm của tôi là trong sáng, tôi chẳng có lỗi gì. Có điều khi người bạn ấy lảng tránh thì tôi không thể chạy theo anh ấy nữa. Tôi chỉ là một cô gái mới lớn lên, cuộc đời chưa từng trải, tôi cần có cuộc sống ổn định vậy thôi, ổn định một cách quay cuồng trong những bận rộn lo toan của người phụ nữ hầu như nuôi con một mình vì chồng đi bộ đội xa nhà.  Tuy nhiên, trong câu chuyện này, nghĩ lại - tôi đã cư xử chẳng ra gì. Tôi thừa biết rằng anh không muốn và sẽ không đến dự đám cưới của tôi, vậy sao tôi đã thân thiết với anh mà không nói trực tiếp với anh được mấy lời chân tình hơn, mà lại gửi cho anh cái thiếp lạnh lùng như thế? Tôi lúng túng vì lẽ gì, tôi bận rộn quá nên “đại tiện” mọi việc, hay là tôi quá vô tâm, để anh phải cư xử lại “bất bình thường” và rồi phải nhận lấy lỗi “trẻ con dỗi dằn” ấy về anh? để rồi tôi tự “có cái cớ” mà quên hẳn bóng hình anh trong suốt 12 năm đến nỗi dứt khoát không liên lạc với anh nữa, trái hẳn lại với ngày nào tôi bảo rằng “dù vật đổi sao dời, mãi mãi em không bao giờ quên được anh, một người bạn lớn bị tật nguyền về thể xác nhưng trí tuệ tâm hồn thì thật tuyệt vời và nghị lực phi thường hiếm có”. Thế đấy, đời là chốn vô thường mà! “Xám hối” và trăn trở vậy nhưng thật ra “đổ” tại “duyên trời định” có lẽ vẫn thỏa đáng hơn. Làm sao tôi có thể là đứa nói xạo chứ? Mà thực ra trong cả quá trình thân thiết với anh Thư, tôi có lừa dối anh bao giờ đâu? Tôi không “khoe” hạnh phúc của tôi và Minh Quang, nhưng tôi đã nhiều lần buộc phải nói vắn gọn nhưng rõ ràng là chúng tôi yêu nhau lắm để không thể có bất cứ sự hiểu lầm nào cơ mà? Hay là tại vì tính tôi, bất luận sai hay đúng, tôi quen Minh Quang luôn phải làm lành trước với tôi mỗi khi có những xung đột trong cuộc sống vợ chồng, mà Minh Quang thì lành hiền tính tình vui vẻ không “chấp” tôi nên anh Hoàng Thư phải chịu hậu quả về cái tính xấu cố hữu của tôi ư?                 
              Trở về thực tại, dòng thư với nét chữ quen thuộc của anh Thư lại nhảy múa trước mắt tôi. Chúng gọi ngày xưa trở về. Tôi tự thầm oán trách mình mà chỉ im lặng không một lời giải thích. Tôi chỉ sửa lỗi bằng cách đến thăm anh ngay. Chúng tôi coi như không có chuyện gì căng thẳng, lại vui vẻ tự nhiên trò chuyện. Nhưng giờ đây tôi không còn là cô gái lẻn trốn mẹ trốn người yêu để đến với anh trong ít phút vội vàng nữa. Tôi là phụ nữ có chồng có tận ba đứa con. Tôi có thể tranh thủ thời gian thăm anh mỗi tuần mỗi tháng, nhưng tôi phải dắt con đến, hoặc phải cố rủ một cô bạn gái thân thiết hiểu tôi, hiểu về tình bạn giữa chúng tôi đi cùng. Nghĩa là tự tôi không chấp nhận tôi đến thăm anh mà chỉ có một mình. Tôi sợ anh có phút giây nào yếu đuối, tôi sợ cái cứng rắn lạnh lùng vốn không phải là bản chất của tôi vô tình làm tổn thương anh. Tôi sợ đủ thứ. Nhưng thực ra, anh Thư vui lắm và đơn giản hơn tôi tưởng. Anh đã khác hẳn ngày xưa rồi. Anh đã làm Trưởng phòng của một cơ quan nghiên cứu kinh tế, anh đã gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Tôi không có ý định ca ngợi rằng anh vào Đảng tức là anh tốt hơn ngày xưa, anh làm công tác quản lý nghĩa là anh “oai” hơn giỏi hơn ngày xưa. Điều làm cho tôi vui là tôi hiểu anh đã hòa mình vào cuộc sống, đã thực sự là người bạn giữa đông đảo bạn bè đồng nghiệp, là người cán bộ mẫn cán không chỉ thầm lặng làm việc một mình mà bên anh đã có “đồng đội” – những con người mộc mạc chân thật của cuộc đời vốn dĩ cái thiện vẫn là gốc mà chẳng có cớ gì anh lại lánh xa họ mãi. Và từ trong sâu thẳm, tôi rất vui thoáng một chút tự hào khi nhớ lại lời anh năm nào “ảnh hưởng của Thư đã đần dần thay đổi cả nếp sống của anh rồi đó”.
             Giống với ngày xưa, anh luôn mong được gặp tôi trò chuyện, nhưng khác ngày xưa anh không còn gửi tôi những dòng thư yêu thương nồng nàn mà ủy mị buồn nản nữa. Mỗi lần tôi đến, anh vừa hỏi chuyện, vừa liên tay rót nước trà mạn đặc ép tôi uống rồi liên miên chuyển chủ đề khiến tôi không thể nào đứng lên cáo từ ra về. Khổ thân tôi, tôi có biết uống trà đâu nhưng nể anh nên phải uống. Có lần, tôi đang nhịn đói (nhà hết gạo chưa mua được chỉ còn lưng bơ nấu cháo cầm hơi nhường mấy bà cháu), mà uống trà nhiều quá, nên tôi lăn ra chóng mặt gục đầu xuống bàn. May vì có bạn gái đi cùng nên tôi đã nhờ cô ấy mà “thoát thân” đưa về nhà trong nỗi thương anh thương mình thật khó tả.
              Khổ quá, đói nghèo quá cũng có lúc sung sướng. Năm 1985 khi tôi lần đầu tiên được sang Bangkok học ngắn ngày, tôi choáng  ngợp trước những tòa nhà hiện đại cao ngất trời, những đường phố rộng ken chặt hàng trăm hàng ngàn chiếc xe bóng lộn đi trật tự trên đường phố mà không thấy bóng một cảnh sát nào, những cửa hiệu, siêu thị tràn ngập hàng hóa đủ sắc màu chủng lọai với các luồng thang máy cuốn dòng người tấp nập… Một lần, tình cờ tôi đi ngang qua quầy xà phòng thơm, bỗng tôi ngậm ngùi nhớ về Hà Nội một thời bom đạn, một thời bao cấp tôi cùng Minh Quang đi mua tích trữ một đống xà phòng giặt Liên Xô để vào gậm giường để phòng ngừa lúc thiếu thốn, tôi nhớ cái mùi hôi hôi nồng nồng của chúng tôi trên chiếc giường ngủ tồi tàn bốn chân gẫy một Minh Quang phải tự đóng thay chân khác, tôi thoáng có ý định mua một loạt bánh xà phòng thơm đủ loại này về cả  nhà dùng cho bõ tức, song nghĩ đến túi tiền của mình, đến cuộc sống còn quá khốn khó của gia đình mình, tôi bấm bụng “nhịn”, và chỉ mua đúng một bánh xà phòng Camay đen mà thôi. Mà bánh xà phòng thơm duy nhất ấy lại là dành cho anh Hoàng Thư chứ không phải cho bố, mẹ, chồng, con, anh chị em hay bạn bè nào khác. Tôi còn nhớ như in, bánh xà phòng ấy thơm đến mức tôi cầm nó một tí rồi cất vào va ly, vậy mà mùi thơm còn mãi trên tay, tôi không dám rửa tay hàng bao nhiêu giờ sau đó mà ngửi lại vẫn sực nức. Tôi tưởng tượng ngay ra khi tôi trao nó cho anh Thư, không biết anh có thích không chứ tôi thì quá xúc động là cầm chắc rồi! Thế đấy tình cảm và sự quan tâm của tôi tới anh chỉ nho nhỏ vậy thôi, nhưng xuất phát từ tấm lòng của tôi với anh, và dĩ nhiên tôi chẳng thể kể với anh chi tiết về nó.      
            Mặc dù rất bận việc nhà việc cơ quan, nhưng tôi luôn tranh thủ thời gian để thăm anh Thư thật nhiều. Anh không còn ở cơ quan tôi nữa. Anh đã chuyển công tác đi nơi khác lâu rồi, nên ngoài việc tới nhà riêng, thi thoảng tôi sang cơ quan anh chuyện phiếm mà anh rất lấy làm thú vị. Có việc gì khó khăn, tôi cũng hỏi anh và nhận được khuyên bảo thật chân tình.
           Thế rồi, bẵng một thời gian, tôi bận đi công tác địa phương, và bấn bíu với con cái học hành, tôi không liên lạc với anh. Tôi cũng chủ quan là sức khỏe anh khá tốt, tinh thần anh thì thoải mái, công việc của anh cũng bận rộn. Nào ngờ tới một hôm, tôi nhận được hung tin là anh ốm nặng đang điều trị tại bệnh viện Hữu Nghị. Thực ra anh bệnh đã lâu lâu rồi, nhưng đến khi nặng quá, anh mới nhờ mấy cô nhân viên liên lạc báo tin. Nghe người ta kể, anh bị đau tim rất nặng đã đến giai đoạn cuối khó qua khỏi, anh phải chữa bệnh tốn kém lắm, mà kinh tế của anh thì eo hẹp, anh không có tiền để bồi dưỡng sức khỏe. Tôi nghe mà rụng rời tay chân. Tôi tự trách mình thân với anh mà chẳng mấy khi quan tâm đến bạn. Trong khi tôi chóng mặt, đau đầu, tôi hơi xổ mũi ho hung hắng là anh đã biết ngay. Còn tôi, tôi chỉ biết rằng anh bị tật bẩm sinh nên sức yếu, anh nói nhỏ và hay phải thở hổn hển, anh hay bị tức ngực nhất là khi thay đổi thời tiết, chứ tôi hoàn toàn không biết gì về bệnh tim của anh cả.
           Ngay tối hôm nhận được tin, ở chỗ làm về, tôi hớt hải đến thẳng bệnh viện tìm thăm anh. Trên giường bệnh, anh Thư nằm tựa vào gối cao, khó thở, nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Anh không gầy đi, vì vốn cũng đã gầy rồi, nhưng da xanh xao lắm. Có vẻ như vì nhờ bạn báo tin, nên anh không mấy ngạc nhiên khi tôi tới thăm, tuy nhiên nét mặt anh rạng rỡ dần lên. Anh tự ngồi dạy dựa lưng vào tường nói chuyện với tôi. Tôi trách nhẹ anh không báo cho tôi biết sớm, anh mỉm cười thật hiền rằng anh biết tôi rất bận và vất vả với con cái, và anh cũng không ngờ được kết cục bệnh lại nặng đến vậy. Anh mệt mà còn nhớ hỏi tôi dạo này làm việc thế nào có gì mới mẻ thú vị, hỏi thăm con gái tôi đã đi học ở Nga chưa, chồng tôi có hay được về với vợ con không … 
            Tôi cắt cam ra vắt cho anh uống, tôi xúc từng thìa một, anh chăm chú uống từng ngụm khá ngon lành. Anh luôn lo lắng giục tôi về nhà kẻo muộn. Tôi gạt đi vừa động viên anh chịu khó ăn, uống mỗi thứ một tí cho lại sức, chứ tiêm và uống thuốc tây nhiều là hại người lắm, mà anh thì đang yếu nữa. Anh cảm ơn tôi với ánh nhìn chân thành mà không hề yếu đuối, mệt mỏi. Chúng tôi lại chuyện trò với nhau như biết bao lần từng là như thế nhưng hôm nay thì là lần đầu tiên tôi chăm anh trên giường bệnh. Tôi vừa bón nước cam vừa dỗ anh:
- Anh uống nốt đi nào, có nhạt không để em pha thêm đường?
- Ngọt rồi em ạ.
- Buổi tối này anh đã uống thuốc chưa anh?
- Tôi mới uống trước khi em vào đấy.
- (sót xa): Nào anh gắng nhé, còn có một thìa thôi. À, hay là em về báo với nhà rồi em vào đây với anh đêm nay nhé. Có sao không anhThư?
- Thôi đừng. Em còn bao nhiêu việc ở nhà, mai lại đi làm sớm. Các anh chị của tôi lát nữa đến sẽ ở lại đây chăm tôi mà. Em đừng lo. Bây giờ cũng muộn rồi thì phải. Em về đi kẻo ở nhà mong đấy.
-   (tần ngần): Vâng ạ. Mai đi làm em sẽ ghé qua đây sớm. Anh cố ngủ một lát đi cho đỡ mệt ạ.
-   Em về nhé. Cảm ơn em lắm.
Tôi ghé vào tai anh nói nhỏ: “Sao anh lại xưng “tôi” với em? Mai em trở lại thăm anh, em “cấm” anh xưng hô thế đấy nhé” rồi vụt chạy ra ngoài…
              Sớm hôm sau, mới 5 giờ sáng, tôi đã vào bệnh viện để có nhiều thời gian rồi từ đó đi làm ngay. Tôi xăm xăm tới phòng anh, nhưng chẳng thấy anh đâu. Tôi vội tìm bác sĩ trực hỏi đầy lo lắng: “Thưa bác sĩ, làm ơn cho tôi hỏi thăm, bệnh nhân Hoàng Thư nằm phòng 303 tối qua, chuyển đi đâu rồi ạ?”.
-      Anh Hoàng Thư hôn mê sâu từ nửa đêm, chúng tôi cho chuyển lên khoa Hồi sức cấp cứu rồi.
-      Dạ thưa…phòng ấy ở đâu bác sĩ chỉ giùm cho.
-      Chị đi thẳng đường này rồi rẽ trái, nhà D tầng 1 phòng 420.
           Tôi cảm ơn người đàn ông rồi lao tới phòng Hồi sức cấp cứu. Trong phòng, anh Thư nằm gần như bất động, máy móc dây rợ đầy xung quanh. Chị Cảnh Hoàng chị dâu của anh đang ở đó. Chị em tôi có quen nhau vì cùng làm trong cơ quan. Tôi lo lắng:”Em chào chị ạ. Tối qua em thăm anh Thư tới chừng hơn 10 giờ, sớm nay quay lại thì bác sĩ bảo anh mới chuyển sang đây…Tình hình anh Thư thế nào chị?”
-      Kim Thư phải không? Thư mới chuyển đêm qua em ạ, bất tỉnh  luôn, chẳng biết gì. Em ở đâu, có gần đây không mà sao đến được sớm thế?
-      Dạ, em ở gần, vùng chợ Giời ạ. Em đi làm ghé qua đây trước…
-         Tối qua, Thư còn bình thường mà. Khi em mới về khoảng nửa tiếng thì vợ chồng chị vào. Thế mà bệnh xoay chuyển nhanh quá, chừng nửa đêm nó khó thở hôn mê em ạ. Khi chị mới vào nó gửi chị đưa em lá thư này đây.
              Tôi run run xé mép phong bì, mấy tờ pơ luya ghi những dòng nhật kí của anh với nét chữ quen thuộc: Tri! Chết bây gi k cũng bun. Nhưng thôi, chết phi chăng là li thoát tuyệt vời nhất cho bao cái bế tắc hôm nay…Kim Thư ơi! Không hiểu sao mấy ngày nay anh hay nhắc đến cái chết, liệu có phải điềm gở không em? Anh kiệt sức thật rồi…Mà lúc nãy em tới đây thăm, anh không dám nói gì với em…
Anh sẽ không bao giờ quên tên em, vì chẳng bao giờ anh quên được tên anh, hỡi người bạn cùng tên vô cùng mến thương của anh.
Nhưng có một điều chắc chắn là ý nghĩ cuối cùng của anh trước khi chết sẽ hướng về em. Anh sẽ dành tiếng nói cuối cùng để gọi tên em và người ta cũng chẳng cười anh được vì họ tưởng rằng anh tự gọi tên mình thôi”…
          Mắt tôi nhòe đi… Tôi gắng gượng trở lại bình thường nói với chị: “Vâng, tối qua lúc em tới, anh Thư còn nói chuyện vui vẻ lắm và uống hết cốc nước cam. Thật không ngờ anh mệt nặng nhanh thế”. Chị Cảnh Hoàng buồn rầu kể: “Đêm qua, trước lúc hôn mê, chị thấy nó cứ gọi gì Thư…Thư, và ràn rụa nước mắt. Chị không hiểu, chị hỏi “Thư cần gì hả em” mà nó im lặng em ạ…” Tôi sụt sịt: “Tội nghiệp anh Thư quá. Chị ơi, cho em ra hỏi chuyện xem anh ấy có tỉnh không chị nhé”. Chị Cảnh Hoàng gật đầu: “Ừ em cứ hỏi Thư đi”.
Tôi tới bên giường bệnh, sờ trán anh, khẽ lay gọi: “Anh Thư ơi! Em đây…Kim Thư đây…” 
Anh Hoàng Thư mở mắt nhìn… Tôi thì thào:”Anh có mệt lắm không ạ?” Anh chỉ im lặng…Tôi nắm lấy bàn tay gầy guộc của anh: “Anh có nhận ra em không ạ?” Anh khẽ gật đầu. Vậy là anh tỉnh rồi. Tôi nhẹ nhàng: “Anh có dễ thở không anh? Có hả? Vậy anh ngủ đi một lát. Em xoa lên trán anh nhé và hát cho anh nghe này… Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau phố xưa nhà cổ mái ngói thơm nâu…”    
           Suốt trong khoảng một tuần sau đó, ngày nào tôi cũng đến thăm anh và ở lại rất lâu trong bệnh viện cùng anh chị của anh để chăm sóc anh. Phần lớn thời gian anh ở tình trạng hôn mê sâu, rất sâu. Đôi lúc anh mới tỉnh, anh chăm chú nhìn tôi và những giọt nước mắt rơi đã thay điều anh muốn nói. 
            Và anh cứ yếu dần yếu dần, anh đã ra đi vì một cơn đau tim đột quị.
            Hôm sau nữa tang lễ anh cử hành tại bệnh viện. Tôi nói với chồng: “Anh Minh Quang ơi, anh Hoàng Thư mất rồi. Em phải qua bệnh viện dự tang lễ bây giờ…Anh ở nhà nhắc các con ăn sáng đi học và đừng chờ em nhé”. Chồng tôi vẻ ái ngại: “Ừ, em đi. Nhớ thắp giùm anh một nén nhang cho anh ấy”. Tôi phải cố kìm nén không thì tôi đã ôm chầm lấy Minh Quang mà khóc rồi. Từ bao nhiêu năm nay kể cả từ những ngày đầu mới thân với anh Hoàng Thư, tôi đều kể cho Minh Quang mà, tôi không dấu diếm quan hệ thân tình ấy. Chỉ có điều, không bao giờ Minh Quang có thể đọc được những bức thư anh Thư gửi cho tôi. Và Minh Quang cũng không biết việc anh Thư trả lại thiếp cưới cũng như chi tiết về việc tôi “trốn” mẹ và Minh Quang để đi thăm anh ấy ngày nào, lại càng không thể biết giấc mơ tôi cưới Hoàng Thư. Còn sau này, tôi thường dắt các con lên thăm bác Thư thì hầu như lần nào tôi cũng nói với Minh Quang, chỉ trừ khi Minh Quang vắng nhà thôi. Mọi chuyện đã qua rồi, người bạn lớn của tôi đã vĩnh viễn ra đi để tôi khỏi phải lẩn tránh những  niềm thương nỗi nhớ thẳm sâu trong những lúc chúng tôi còn “duyên” mà đến với nhau nữa…      
               Dự đám tang có đông đủ gia đình, lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp của anh. Tôi đã không kìm nén được, òa khóc nức nở một cách lạ lùng và bất thường. Tôi đã khóc suốt, mà khóc to nữa hầu như át mọi tiếng khóc. Tôi không biết niệm A di đà Phật như bây giờ để cầu cho anh vãng sanh về nơi cực lạc. Trong phút chốc gần như mê muội, tôi thầm hỏi các đấng siêu nhân nào không rõ, sao không đưa tôi về một giấc mơ, tái lại cảnh đám cưới tôi lấy Hoàng Thư, rồi tiếp đến cảnh đám tang anh như thế này, để tôi để tang anh như vợ để tang chồng? và lúc đó, bao nhiêu vòng hoa trắng muốt sẽ biến thành những vòng hoa với đủ sắc mầu của cuộc đời trao tặng gửi gấm tiễn đưa anh. Tôi không kịp nghĩ nói lời xin lỗi với chồng tôi, tôi cũng chẳng kịp hình dung Minh Quang có đủ độ lượng để chấp nhận những ý nghĩ bất thường mà thực ra là rất dung dị này của người vợ đã đang và mãi mãi chung thủy với Minh Quang hay không. Còn cái đám đông, rất đông khách dự tang lễ ấy, hình như ai cũng nhìn tôi bằng con mắt ái ngại nhưng vô cùng kinh ngạc, bởi lẽ họ chứng kiến quá bất ngờ nỗi đau đớn của tôi khi tiễn đưa anh Hoàng Thư về cõi vĩnh hằng, họ không thể hình dung tôi là ai, thân với anh Thư từ bao giờ, thân đến mức nào, và vì sao tiếng khóc tiếc thương anh Thư của tôi lại thê thảm đến nhường ấy…
             Tôi tiễn anh, và ngay sau đó tôi được biệt phái vào Đà Nẵng gần một năm. Âu cũng là trời sắp đặt như vậy, chứ nếu tôi đi xa trước đó chỉ ít ngày thì tôi không thể ở bên anh trong những giờ phút cuối cùng. Tôi sẽ chỉ còn biết ngậm ngùi mỗi khi đến viếng thăm mộ anh, ở giữa cánh đồng hoa Nhật Tân, và thì thầm : “Em chào anh ạ. Anh chắc còn nhớ em chứ anh Thư? Em mong anh hãy trở về nói chuyện với em nữa đi anh! Em xin phép dẫm lên chỗ này, để làm cỏ và lau dọn anh nhé! Anh Thư ơi! Lâu nay em vẫn sống, gắng sống bình thường và tự tạo cho mình hạnh phúc. Em vẫn nhớ đến anh, nhớ những ngày xưa, nhớ mãi. Cầu mong nơi thế giới bên kia, anh được khỏe mạnh, an lành, được thỏa sức say mê những ước mơ và thực hiện mơ ước của mình nhé anh!…”
                Tôi ra về, và trong gió lay động những cánh hoa đủ màu khoe sắc thắm, tôi vẫn như nghe vẳng đâu đây tiếng gọi của anh Thư:” Kim Thư ơi! anh muốn gọi em ngàn lần, người bạn cùng tên mà anh mến thương…”, nghe để cảm nhận đến tận cùng trong cái vô biên thinh lặng tình người…

Hà Nội 29 tháng 12 năm 2014

Hồ Minh Quang 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét